6 tháng đầu năm 2024, tốc độ tăng trưởng GDP ngành nông lâm thủy sản đạt 3,38%, cao nhất so với cùng kỳ của 5 năm gần đây. Theo Bộ trưởng Bộ NNPTNT Lê Minh Hoan, ngành nông nghiệp nâng mục tiêu xuất nông sản lên 57-58 tỷ USD.
Theo báo cáo tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2024 của Bộ NNPTNT, ngày 5/7, tốc độ tăng GDP ngành nông lâm thủy sản 6 tháng đầu năm 2024 đạt 3,38%, cao nhất trong nửa đầu năm của 5 năm gần đây (tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu các năm: năm 2020 tăng 1,24%, năm 2021 tăng 3,77%, năm 2022 tăng 2,78%, năm 2023 tăng 3,26%).
Lũy kế các vụ lúa từ đầu năm đến nay, cả nước gieo cấy 5,03 triệu ha, tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước; thu hoạch 3,48 triệu ha, tăng 0,5%; năng suất bình quân 67,1 tạ/ha, tăng 0,7 tạ/ha. Đến nay, sản lượng lúa trên diện tích đã thu hoạch 23,3 triệu tấn, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước.
Triển khai Đề án “Phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030”, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành và tổ chức tập huấn Quy trình kỹ thuật canh tác lúa giảm phát thải cho 5 địa phương triển khai mô hình thí điểm. Đồng thời, xây dựng Nghị định cơ chế thí điểm chi trả kết quả giảm phát thải và quản lý tài chính thỏa thuận chi trả kết quả giảm phát thải khí nhà kính.
Đối với ngành chăn nuôi, trong 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước, sản lượng thịt lợn hơi đạt 2,54 triệu tấn, tăng 5,1%; sản lượng thịt gia cầm hơi đạt 1,21 triệu tấn, tăng 4,9%; trứng đạt gần 10,1 tỷ quả, tăng 5,1%; sản lượng thịt bò hơi đạt 255,9 nghìn tấn, tăng 1,1%; sản lượng sữa 643,7 nghìn tấn, tăng 5,5%.
Đối với ngành lâm nghiệp, trong 6 tháng đầu năm, cả nước chuẩn bị 593 triệu cây giống các loại phục vụ trồng rừng, diện tích rừng trồng mới tập trung 125,5 nghìn ha, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước. Bên cạnh đó, nâng cao năng suất, chất lượng rừng, chú trọng quản lý giống (tỷ lệ diện tích rừng trồng từ nguồn giống có kiểm soát chất lượng đạt 85%), trồng rừng theo hướng thâm canh, chuyển hóa rừng kinh doanh gỗ nhỏ sang gỗ lớn. Sáu tháng đầu năm, sản lượng gỗ khai thác rừng trồng tập trung 9,93 triệu m3, tăng 6,3%.
Trong 6 tháng đầu năm, tổng sản lượng thủy sản đạt 4,38 triệu tấn, tăng 2,7% so với cùng kỳ năm 2023. Diện tích sản xuất muối 10.804 ha, sản lượng 789,2 nghìn tấn.
Bên cạnh những kết quả đạt được, ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho rằng ngành vẫn còn một số tồn tại, hạn chế và những thách thức. Thiên tai, dịch bệnh, hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước sản xuất, công tác phòng chống cháy rừng, ô nhiễm môi trường… đang có những thách thức lớn.
Sản xuất nông nghiệp tại các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Duyên hải Nam Trung bộ gặp nhiều khó khăn do khô hạn, xâm nhập mặn tăng cao.
Công tác quản lý chất lượng, an toàn thực phẩm vẫn xảy ra những vụ việc vi phạm tại một số cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm, gây phản ứng dư luận xã hội.
Tình trạng nhập lậu sản phẩm chăn nuôi qua biên giới, vận chuyển gia súc, gia cầm không rõ nguồn gốc ảnh hưởng đến điều tiết, quản trị sản xuất kinh doanh, tiềm ẩn nguy cơ lây lan dịch bệnh và tác động đến thu nhập của nông dân, lợi nhuận của doanh nghiệp. Liên kết theo chuỗi giá trị để thúc đẩy cơ giới hóa, ứng dụng công nghệ cao để giảm chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng chưa phổ biến.
Bộ trưởng Bộ NNPTNT Lê Minh Hoan cho biết với những kết quả đạt được trong 6 tháng qua, Bộ đã nâng một số mục tiêu lên cao hơn so với mức Chính phủ giao từ đầu năm. Cụ thể, nâng mục tiêu kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản lên 57-58 tỷ USD (Chính phủ giao từ đầu năm là 55 tỷ USD).
Ông đề nghị phải chuyển đổi tư duy từ lấy sản lượng sang lấy giá trị gia tăng làm mục tiêu; chuyển đổi tư duy từ tăng sản lượng sang tăng giá trị, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; chuyển đổi theo hướng khai thác đa tầng, đa giá trị trên một diện tích đất.
Bộ trưởng cho rằng với sự trăn trở của những người làm nông nghiệp, không ngừng cải cách phương pháp làm việc, những con số phản ánh thành tựu nông nghiệp tới đây sẽ tăng trưởng lũy tiến, và nhìn thấy rõ 6 tháng tăng tốc của năm 2024 trước khi bước sang một năm 2025 bứt phá.
“Sản lượng rồi sẽ chạm trần, việc tận dụng đất đai cũng sẽ chạm ngưỡng. Như vậy, nếu không nghĩ khác đi thì ngành nông nghiệp sẽ không thể tiến xa được. Đặc biệt, trong bối cảnh trí tuệ nhân tạo bùng nổ như hiện nay, ngành nông nghiệp cần có kế hoạch để tiếp cận đến những công nghệ số hóa cao hơn”, Bộ trưởng Lê Minh Hoan nói.
Tổng kim ngạch xuất khẩu NLTS 6 tháng đầu năm đạt 29,2 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, nhóm nông sản chính 15,76 tỷ USD, tăng 24,4%; lâm sản chính 7,95 tỷ USD, tăng 21,2%; thuỷ sản 4,36 tỷ USD, tăng 4,9%; sản phẩm chăn nuôi 240 triệu USD, tăng 3,8%.
Có 7 nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD gồm: cà phê, cao su, gạo, rau quả, hạt điều, tôm, sản phẩm gỗ. Trong đó, gạo và hạt điều là 2 sản phẩm tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu (Gạo 4,68 triệu tấn, tăng 10,4%, giá trị 2,98 tỷ USD, tăng 32%; hạt điều 350.000 tấn, tăng 24,9%, giá trị 1,92 tỷ USD, tăng 17,4%); Cà phê tuy giảm về khối lượng, đạt 902.000 tấn, giảm 10,5%, nhưng nhờ giá xuất khẩu bình quân tăng 50,4% nên giá trị xuất khẩu đạt 3,22 tỷ USD, tăng 34,6%.
Về thị trường xuất khẩu: Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường xuất khẩu các mặt hàng NLTS lớn nhất của Việt Nam; giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng 20,7%, tăng 20,8%; Trung Quốc chiếm 20,2%, tăng 9,5% và Nhật Bản chiếm 6,7%, tăng 5%.
Minh Ngọc
Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025
Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới
Thông tư của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch Về sữa đổi, bổ sung tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa, thể thao xã và thôn