06:43:04 28/11/2025

Chung sức xây dựng nông thôn mới_top

Nghệ An: 06 năm triển khai chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất – Lan tỏa mô hình hợp tác, thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa, động lực quan trọng trong thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Sau 6 năm thực hiện Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Nghệ An đã đạt nhiều kết quả nổi bật, góp phần thúc đẩy cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, chuyển đổi mạnh mẽ phương thức tổ chức sản xuất, nâng cao vai trò trung tâm của hợp tác xã (HTX) trong chuỗi giá trị, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ, đồng thời tạo động lực quan trọng cho chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.

Nghệ An: 06 năm triển khai chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất – Lan tỏa mô hình hợp tác, thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa, động lực quan trọng trong thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

(Ảnh: Máy gặt đập liên hợp do HTX Dịch vụ nông nghiệp và Xây dựng Minh Thành đầu tư, được hỗ trợ từ Dự án liên kết sản xuất góp phần cơ giới hóa đồng bộ và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp)

Ban hành kịp thời, triển khai đồng bộ

Ngay sau khi Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ được ban hành, Sở Nông nghiệp và Môi trường Nghệ An đã chủ động tham mưu cho UBND, HĐND tỉnh Nghệ An ban hành các văn bản để triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh, trong đó nổi bật là Nghị quyết số 13/2018/NQ-HĐND ngày 12/12/2018 của HĐND tỉnh – Nghệ An là một trong những địa phương đầu tiên trong cả nước ban hành Nghị quyết về chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và Quyết định số 246/QĐ-UBND ngày 24/1/2019 của UBND tỉnh phê duyệt các ngành hàng, sản phẩm quan trọng cần khuyến khích, ưu tiên hỗ trợ thực hiện liên kết trên địa bàn tỉnh Nghệ An (đã được thay thế bằng Quyết định số 1957/QĐ-UBND ngày 06/7/2022). Ngoài ra, nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, phân cấp thực hiện được ban hành kịp thời, tạo hành lang pháp lý thống nhất từ tỉnh đến cơ sở.

Có thể nói công tác tham mưu ban hành các văn bản để triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ liên kết theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP trên địa bàn tỉnh Nghệ An là rất kịp thời, đồng bộ và đã đạt được kết quả tốt sau hơn 06 năm thực hiện. Song song với đó, hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách cũng được đẩy mạnh, các văn bản quy định và hướng dẫn thực hiện chính sách đã được công khai, phổ biến rộng rãi đến các địa phương, HTX, doanh nghiệp và nông dân. Đồng thời Sở Nông nghiệp và Môi trường cũng đã có các văn bản gửi UBND các huyện, thành phố, thị xã để chỉ đạo rà soát, hướng dẫn các chủ trì liên kết xây dựng các Dự án/Kế hoạch liên kết phù hợp với quy hoạch, kế hoạch của địa phương và đăng ký kế hoạch thực hiện hỗ trợ liên kết hàng năm gửi về Sở Nông nghiệp và Môi trường để tổng hợp, tham mưu cấp có thẩm quyền bố trí kinh phí hỗ trợ theo quy định.

Ngoài ra, hằng năm, Chi cục Kinh tế hợp tác và PTNT cũng tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ quản lý HTX về nội dung của Nghị định số 98/2018/NĐ-CP, Nghị quyết số 13/2018/NQ-HĐND của HĐND tỉnh và thành lập các đoàn công tác xuống làm việc với các địa phương và các Hợp tác xã để trực tiếp phổ biến, hướng dẫn về nội dung lập các Dự án/Kế hoạch liên kết theo Nghị quyết 13/2018/NQ-HĐND ngày 12/12/2018 của HĐND tỉnh. Nhờ vậy, chính sách nhanh chóng đi vào cuộc sống và nhận được sự đồng thuận của người dân, HTX và doanh nghiệp.

Nhiều mô hình liên kết hiệu quả, lan tỏa rộng rãi

Về triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ trên địa bàn tỉnh Nghệ An trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, phát triển cả về số lượng và chất lượng. Lũy kế đến nay, toàn tỉnh đã có 40 Dự án/Kế hoạch liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm được phê duyệt hỗ trợ (27 Dự án/Kế hoạch do UBND tỉnh phê duyệt và 13 Dự án do UBND cấp huyện trước thời điểm thực hiện chính quyền địa phương 02 cấp phê duyệt). Tổng số hộ dân tham gia trong các Dự án/Kế hoạch liên kết là 16.121 hộ, tổng quy mô thực hiện liên kết là 4.396 ha, 150.000 con gà và 3.600 con lợn. Tổng kinh phí được phê duyệt hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là hơn 72 tỷ đồng, trong đó kinh phí đã được bố trí để hỗ trợ các Dự án/Kế hoạch từ năm 2019-2025 là 62,67 tỷ đồng, đạt 87,04% nhu cầu hỗ trợ.

Các Dự án/Kế hoạch liên kết khá đa dạng, trải rộng ở nhiều lĩnh vực như trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp với các sản phẩm gồm: Lúa giống, lúa thương phẩm; chè; ngô; ớt cay; các sản phẩm chế biến từ cây Chanh, cây Sen, cây Cà gai leo, cây Dây thìa canh, cây gừng; gỗ rừng trồng; chăn nuôi gà, lợn và rau, củ, quả an toàn. Có 40 hợp tác xã và 21 doanh nghiệp tham gia liên kết (trong đó 12 doanh nghiệp trong tỉnh và 09 doanh nghiệp ngoài tỉnh).

Nghệ An: 06 năm triển khai chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất – Lan tỏa mô hình hợp tác, thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa, động lực quan trọng trong thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

(Ảnh: Hoạt động thu mua lúa tập trung theo Dự án liên kết sản xuất của HTX Nông nghiệp Liên Thành)

Nghệ An: 06 năm triển khai chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất – Lan tỏa mô hình hợp tác, thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa, động lực quan trọng trong thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

(Ảnh: Vùng trồng cà gai leo tham gia dự án liên kết sản xuất của HTX Dược liệu Pù Mát)

Trong 40 đơn vị được hỗ trợ thì có 30 đơn vị xây dựng các Dự án liên kết để đề xuất hỗ trợ mua sắm máy móc, thiết bị. Một số đơn vị sau khi được hỗ trợ mua sắm máy móc, thiết bị đã thực hiện rất tốt việc ứng dụng cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất cũng như sơ chế, chế biến sản phẩm sau thu hoạch, xây dựng được các chuỗi liên kết ổn định như HTX Dược liệu Pù Mát, HTX Nông nghiệp công nghệ cao sản xuất & chế biến Chanh Nam Kim, HTX Nông nghiệp Sen Quê Bác, HTX Lâm nghiệp tổng hợp Quỳnh Thắng, HTX Nông nghiệp Quyết Tiến, HTX DVNN và XD Minh Thành, HTX Nông nghiệp DVTH Thọ Thành, HTX Nông nghiệp dịch vụ Quyết Thắng,…

Nghệ An: 06 năm triển khai chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất – Lan tỏa mô hình hợp tác, thúc đẩy nông nghiệp hàng hóa, động lực quan trọng trong thực hiện cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

(Ảnh: Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Đệ kiểm tra tình hình hoạt động của HTX Lâm nghiệp tổng hợp Quỳnh Thắng – Một trong những mô hình liên kết sản xuất tiêu biểu trong lĩnh vực lâm nghiệp)

Việc triển khai chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh, từ hình thức sản xuất nhỏ lẻ đang dần chuyển sang sản xuất tập trung, quy mô lớn, mang tính chất hàng hóa, việc áp dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật, đưa cơ giới hóa vào sản xuất ngày càng được quan tâm nhằm tăng năng suất, sản lượng, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, tạo công ăn việc làm ổn định, nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân. Các mô hình liên kết ngày càng đa dạng, quy mô liên kết được mở rộng, số lượng hợp tác xã, doanh nghiệp và hộ nông dân tham gia ngày càng nhiều. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 278 HTX thực hiện liên kết với các doanh nghiệp trong các khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chiếm 38,13% tổng số HTX nông nghiệp toàn tỉnh; việc liên kết sản xuất không chỉ giúp nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho HTX, nông dân mà còn khẳng định vai trò trung tâm của HTX trong tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ bền vững; từ đó đã góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp của tỉnh, đặc biệt thể hiện rõ qua tỷ lệ giá trị sản phẩm nông, lâm, thủy sản được sản xuất dưới các hình thức hợp tác, liên kết ngày càng tăng; năm 2018 đạt 18,66%, đến năm 2024 đạt 27,6% (đạt 92% so với mục tiêu trung ương giao đến năm 2025 tại Quyết định số 255/QĐ-TTg ngày 15/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 – 2025).

Liên kết sản xuất – điểm sáng trong xây dựng nông thôn mới

Các mô hình liên kết không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn trở thành đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, nâng cao đời sống người dân và góp phần thực hiện thành công chương trình xây dựng nông thôn mới. Thông qua việc tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, hàng nghìn hộ nông dân đã được tiếp cận quy trình kỹ thuật tiên tiến, ổn định đầu ra sản phẩm, tăng thu nhập bền vững – yếu tố quan trọng giúp các xã đạt và duy trì tiêu chí số 10 (thu nhập) và tiêu chí số 13 (tổ chức sản xuất) trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

Nhờ triển khai chính sách liên kết, nhiều địa phương trong tỉnh đã hình thành vùng sản xuất tập trung, vùng chuyên canh hàng hóa quy mô lớn, qua đó giúp các địa phương khai thác có hiệu quả các lợi thế đặc thù, nâng cao năng lực cạnh tranh và xây dựng thương hiệu nông sản địa phương. Các HTX như Sen Quê Bác (Nam Đàn), Dược liệu Pù Mát (Con Cuông), Chanh Nam Kim (Nam Đàn),…đã trở thành điển hình trong việc gắn sản xuất với phát triển sản phẩm OCOP, vừa tạo giá trị kinh tế, vừa góp phần hoàn thiện tiêu chí tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới nâng cao.

Thực tiễn ở các địa phương như Nam Đàn, Yên Thành, Quỳnh Lưu…cho thấy, liên kết sản xuất đã trở thành động lực nội sinh quan trọng, giúp người dân thay đổi tư duy từ “sản xuất nông nghiệp thuần túy” sang “phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với thị trường”. Nhờ đó, quá trình xây dựng nông thôn mới ở các địa phương ngày càng mang tính thực chất, hiệu quả và bền vững hơn.

Còn đó những rào cản cần tháo gỡ

Dù đạt kết quả tích cực, việc triển khai chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất ở Nghệ An vẫn đối mặt một số khó khăn, thách thức như chưa triển khai được nội dung hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà kho, bến bãi phục vụ liên kết do chưa được bố trí nguồn vốn đầu tư phát triển, đầu tư công để thực hiện chính sách; trong khi đó, các HTX nông nghiệp đa số có quy mô nguồn vốn hoạt động hạn chế do đó chưa đủ tiềm lực để đầu tư cơ sở vật chất phục vụ liên kết, do đó hầu hết các HTX chưa có nhà xưởng, bến bãi, máy móc thiết bị để thực hiện sơ chế, bảo quản, chế biến sản phẩm nên chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất cũng như hạn chế rủi ro do thiên tai hoặc do thị trường tiêu thụ.

Vẫn còn nhiều HTX hoạt động còn thụ động, đội ngũ cán bộ quản lý HTX hạn chế về năng lực quản trị, kiến thức thị trường và kỹ năng xây dựng phương án kinh doanh nên chưa đáp ứng yêu cầu tổ chức liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Cơ chế, chính sách hỗ trợ tích tụ, tập trung ruộng đất chưa đủ mạnh, trong khi tập quán sản xuất nhỏ lẻ, manh mún vẫn còn phổ biến, khiến quá trình hình thành vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn và triển khai liên kết sản xuất gặp nhiều khó khăn.

Doanh nghiệp là nòng cốt, là xương sống của liên kết sản xuất, tuy nhiên ở Nghệ An chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nhất là những doanh nghiệp chế biến sâu, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nên chưa tạo được động lực mạnh để phát triển liên kết bền vững; mặt khác chưa có cơ chế hấp dẫn để thu hút các doanh nghiệp lớn vào xây dựng nhà máy sản xuất gắn với phát triển vùng nguyên liệu và thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với HTX, nông dân.

Hướng tới giai đoạn 2026 – 2030: Đẩy mạnh liên kết – thu hút doanh nghiệp lớn

Trong thời gian tới, Nghệ An xác định tiếp tục thực hiện đồng bộ các chính sách của Trung ương và tỉnh đã ban hành như: Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018, Nghị định số 113/2024/NĐ-CP ngày 12/9/2024 của Chính phủ; Nghị quyết số 13/2018/NQ-HĐND ngày 12/12/2018, Nghị quyết số 04/2025/NQ-HĐND ngày 28/4/2025 của HĐND tỉnh về mức hỗ trợ một số chính sách phát triển tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX trên địa bàn tỉnh Nghệ An….Ưu tiên bố trí nguồn lực để hỗ trợ các HTX đầu tư phát triển hạ tầng sản xuất, sơ chế, chế biến sản phẩm, chuyển đổi số trong quản lý, phát triển thị trường; đồng thời, tiếp tục rà soát để điều chỉnh, bổ sung các chính sách phù hợp để đẩy mạnh liên kết, hợp tác trong sản xuất nông nghiệp; đặc biệt là các chính sách thu hút các doanh nghiệp lớn vào liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn tỉnh.

Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các HTX, doanh nghiệp, nông dân và cán bộ quản lý về vai trò, lợi ích của hợp tác và liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm; làm rõ lợi ích khi tham gia chuỗi giá trị, góp phần chuyển đổi tư duy từ sản xuất nhỏ lẻ sang phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa, hiện đại. Phát huy vai trò trung tâm của HTX trong việc tập hợp, đại diện cho nông dân, tổ chức lại sản xuất theo hướng hàng hóa tập trung, bảo đảm chất lượng và an toàn thực phẩm; làm cầu nối giữa hộ nông dân với doanh nghiệp, hỗ trợ dịch vụ đầu vào, hướng dẫn quy trình sản xuất, giám sát chất lượng.

Khuyến khích các HTX và doanh nghiệp thiết lập, ký kết hợp đồng hợp tác trên cơ sở minh bạch, công khai và bình đẳng; bảo đảm cơ chế chia sẻ hài hòa lợi ích cũng như cùng gánh vác rủi ro trong quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Qua đó, từng bước xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất chặt chẽ, ổn định và bền vững. Huy động đa dạng các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng, vốn đối ứng của HTX, doanh nghiệp và nông dân để đầu tư cho phát triển hợp tác, liên kết sản xuất. Ưu tiên phân bổ, sử dụng nguồn lực tập trung cho những mô hình liên kết hiệu quả, có khả năng lan tỏa, tránh dàn trải, manh mún.

Khẳng định vai trò của hợp tác và liên kết, động lực cho cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

Sau 6 năm triển khai, chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất theo Nghị định số 98/2018/NĐ-CP đã thực sự trở thành động lực quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới của tỉnh Nghệ An. Các mô hình liên kết giữa nông dân – HTX – doanh nghiệp không chỉ góp phần thúc đẩy cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững, mà còn mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản địa phương, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân nông thôn.

Liên kết sản xuất đã trở thành cầu nối hiệu quả giữa sản xuất và thị trường, giữa kinh tế hộ và kinh tế tập thể, giúp hình thành chuỗi giá trị nông sản khép kín, giảm rủi ro, chia sẻ lợi ích và trách nhiệm giữa các chủ thể. Nhờ đó, quá trình xây dựng nông thôn mới ở Nghệ An ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và bền vững hơn./.

Nguồn: Nguyễn Cường (Chi cục KTHT&PTNT)

Vương Đinh Huệ
Văn bản ban hành

1489/QĐ-TTg

Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 06/07/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 24/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ

LĂNG THÀNH- YÊN THÀNH ĐÓN BẰNG CÔNG NHẬN XÃ ĐẠT CHUẨN NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAO.

1541/QĐ-UBND

Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025

318/QĐ-TTg

Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025

1563/QĐ-UBND

Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025

320/QĐ-TTg

Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025

319/QĐ-TTg

Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025

263/QĐ-TTg

Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025

18/2022/QĐ-TTg

Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025

24/2020/NQ-HĐND

Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025

211/QĐ-TTg

Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025

Số 05/2014/TT-BVHTTDL

Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới


Thăm dò ý kiến

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM nên theo chỉ tiêu nào?

Xem bình chọn

Loading ... Loading ...
Thống kê
  • Đang truy cập0
  • Hôm nay0
  • Tháng hiện tại0
  • Tổng lượt truy cập0
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây