00:46:55 30/10/2025

Chung sức xây dựng nông thôn mới_top

Một tỉnh giáp Trung Quốc có cách làm nông – lâm kết hợp độc đáo, nông dân thu nhập tăng 1,3-2 lần

Trong những năm gần đây, tỉnh Lào Cai đã tích cực triển khai các mô hình nông lâm kết hợp (NLKH) nhằm tận dụng hiệu quả đất đai, bảo vệ tài nguyên rừng, cải thiện sinh kế và giảm nghèo bền vững cho người dân. Đặc biệt tại các xã vùng cao, những mô hình này đang giúp bà con đồng bào dân tộc thiểu số ở Lào Cai có tiền tiêu quanh năm.

Thu nhập tăng hơn 1,3 – 2 lần nhờ làm nông lâm kết hợp

Theo Trung tâm Khuyến nông và Dịch vụ nông nghiệp Lào Cai, với đặc điểm địa hình chủ yếu là đồi núi, địa bàn rộng, dân cư phân tán và nhiều dân tộc thiểu số, cộng với bối cảnh suy giảm tài nguyên rừng và đất canh tác manh mún, mô hình NLKH đang được coi là giải pháp phù hợp nhằm nâng cao sinh kế cho người dân, tăng độ che phủ rừng và phát triển bền vững nông nghiệp vùng cao.

Đến năm 2025, toàn tỉnh đã triển khai trên 10.000ha mô hình NLKH với nhiều hình thức đa dạng như: Trồng cây ăn quả dưới tán rừng quế (Bắc Hà, Văn Bàn); Nuôi dê, ong mật dưới tán rừng (Si Ma Cai, Bát Xát); Trồng cây dược liệu (sa nhân, đương quy…) xen lâm nghiệp (Mường Khương, Bảo Thắng); Chăn nuôi kết hợp trồng rừng phục hồi (Bảo Yên). Ngoài ra còn có các mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng (khôi nhung, trà hoa vàng) tại Yên Bình, mô hình rừng – vườn – ruộng, rừng – vườn – chuồng tại Văn Yên…

Các mô hình này đã góp phần tăng thu nhập cho người dân từ 1,3 – 2 lần so với canh tác đơn thuần, tăng tỷ lệ che phủ rừng toàn tỉnh đạt 59,2% (2024), tạo thêm việc làm, giữ gìn đất rừng và đa dạng sinh học. Một số mô hình còn gắn với chương trình OCOP, kết hợp làm du lịch sinh thái và liên kết doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm nên đầu ra khá ổn định.

Một tỉnh giáp Trung Quốc có cách làm nông – lâm kết hợp độc đáo, nông dân thu nhập tăng 1,3-2 lần
Vườn lê của gia đình ông Cư Seo Vần, thôn Lao Chải, xã Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai chuẩn bị cho thu hoạch. Ảnh: blc

Đơn cử như tại các xã Bắc Hà (sáp nhập từ các xã Na Hối, Thải Giàng Phố, Bản Phố, Hoàng Thu Phố và Nậm Mòn), xã Mường Hum (sáp nhập các xã Mường Hum, Trung Lòng Hồ, Nậm Pung cũ), từ chỗ cây lê VH6 được đưa vào trồng thí điểm năm 2009, đến nay người dân đã nhân rộng giống cây này khắp vườn đồi. Đặc biệt, khu vực Nậm Pung cũ đã trở thành vùng lê hàng hóa lớn nhất Bát Xát, với hơn 170ha trồng lê VH6.

Theo Trung tâm KN&DVNN Lào Cai, nếu so sánh với các cây trồng khác hiện có trên địa bàn thì lê VH6 thực sự là cây trồng mang lại giá trị kinh tế cao, hiệu quả, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững. Bởi đây là cây trồng 1 năm, nhưng được thu hoạch rất nhiều năm. Hàng năm bà con chỉ làm cỏ, bón phân 4 – 5 lần là cho thu hoạch.

Đặc biệt, Trung tâm KN&DVNN thường xuyên cử cán bộ chuyên môn hướng dẫn kỹ thuật, dùng giàn kiên cố để vin cành, tỉa quả theo công nghệ của Đài Loan, giúp cây lê sinh trưởng khỏe mạnh, đủ ánh sáng, giảm sâu bệnh, thuận tiện cho chăm sóc và thu hoạch. Những diện tích được đầu tư thâm canh, bài bản, từ 5-7 năm tuổi trở lên có thể cho sản lượng 15 – 16 tấn quả/ha, giá trị kinh tế khoảng trên 400 triệu đồng/ha, cao hơn nhiều so với trồng ngô và lúa; đồng thời năng suất hơn so với diện tích lê không được đầu tư thâm canh từ 15 – 20%.

Một tỉnh giáp Trung Quốc có cách làm nông – lâm kết hợp độc đáo, nông dân thu nhập tăng 1,3-2 lần
Anh Vương Xuân Hùng, xã Mường Khương (Lào Cai) thu hoạch quả lê Tai nung. Ảnh: Mùa Xuân.

Hiện nay, các xã ở huyện Bát Xát (cũ) đã trồng được 90ha lê tập trung có đầu tư hệ thống tưới tự động, sử dụng phân bón hữu cơ, thuốc bảo vệ thực vật, thảo mộc. Dự kiến, các xã này sẽ mở rộng lên 300 – 500ha trồng lê áp dụng công nghệ cao.

Tương tự, ở xã Quan Hồ Thần (huyện Si Ma Cai cũ), mô hình thâm canh lê VH6 theo tiêu chuẩn VietGAP mới được triển khai từ năm 2022. Mô hình có 60 hộ dân tham gia với diện tích là 14ha. Tại đây, bà con được hỗ trợ về kỹ thuật, chăm sóc, bón phân, vin cành, tạo tán, tỉa quả theo quy trình. Do đó, cây lê có thể đạt năng suất trên 20 tấn/ha, tăng 15% so với cách chăm sóc truyền thống.

Mô hình chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất lê VH6 theo tiêu chuẩn VietGAP đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao Lào Cai dần thay đổi tư duy, nhận thức. Từ phương thức sản xuất truyền thống, bà con đã mạnh dạn chuyển đổi sang sản xuất theo hướng tập trung, quy mô lớn, kết hợp nhiều tầng, nhiều loại cây trên một đơn vị diện tích canh tác, từ đó tăng thu nhập bền vững.

Thành lập các nhóm sở thích, tạo nguồn sinh kế bền vững

Mặc dù còn nhiều thách thức về vốn, kỹ thuật và quy hoạch dài hạn, mô hình NLKH tại Lào Cai đã chứng minh được tiềm năng lớn trong phát triển nông nghiệp bền vững và thích ứng biến đổi khí hậu ở vùng cao.

Bà Nguyễn Thị Hà – Giám đốc Trung tâm KN&DVNN Lào Cai đánh giá, các mô hình NLKH đã góp phần tăng thu nhập cho người dân nhờ đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi (cây ngắn ngày, cây lâm nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi). Đặc biệt, NLKH giúp người dân có nguồn thu ổn định quanh năm; tạo sinh kế bền vững và đặc biệt hữu ích với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa như Si Ma Cai, Bắc Hà, Mường Khương. Nhiều hộ đã thoát nghèo nhờ áp dụng các mô hình nông lâm kết hợp.

Một tỉnh giáp Trung Quốc có cách làm nông – lâm kết hợp độc đáo, nông dân thu nhập tăng 1,3-2 lần
– Những quả lê VH6 mọng nước, ngọt lịm trồng ở Bắc Hà ngày càng được thị trường ưa chuộng. Ảnh: Mùa Xuân.

Theo bà Hà, nếu được đầu tư đúng mức, mô hình NLKH sẽ là hướng đi đúng đắn, khai thác hiệu quả đặc điểm địa hình, sinh thái và văn hóa canh tác của địa phương. Tầm nhìn xa, đây sẽ là trụ cột quan trọng trong chiến lược phát triển nông thôn bền vững của tỉnh.

Do đó, cần có sự chỉ đạo sát sao từ chính quyền địa phương trong việc triển khai các mô hình NLKH, trong đó vai trò của tổ chức cơ sở như HTX, nhóm hộ là rất quan trọng: Việc người dân liên kết thành nhóm sở thích hoặc hợp tác xã sẽ giúp tổ chức sản xuất và tiếp cận thị trường dễ dàng hơn.

Thứ hai, lãnh đạo Trung tâm KN&DVNN Lào Cai nhấn mạnh cần lấy người dân làm trung tâm, mô hình chỉ bền vững nếu người dân thực sự thấy được lợi ích kinh tế – xã hội từ việc tham gia (như tăng thu nhập, cải thiện đời sống). Phải phù hợp với tập quán canh tác và điều kiện của từng vùng, từng dân tộc: Ví dụ, cây trồng phù hợp với người Mông ở Bắc Hà có thể không phù hợp với người Dao ở Bảo Thắng.

Thứ ba, cần tập huấn kỹ thuật bài bản và thường xuyên, việc hướng dẫn trồng cây lâm nghiệp, cây ăn quả xen canh, kỹ thuật chăn nuôi, sử dụng phân hữu cơ… và lồng ghép trong các lớp khuyến nông. Kỹ thuật phải đơn giản, dễ áp dụng.

Thứ tư, cần có cơ chế hỗ trợ vốn phù hợp và linh hoạt do nhiều hộ nghèo không có khả năng đầu tư ban đầu, như cấp phát, cho vay ưu đãi, hỗ trợ giống cây trồng – vật nuôi. Thứ năm, sản xuất phải gắn với thị trường đầu ra, một số mô hình ban đầu có hiệu quả nhưng sau đó bị bỏ dở do không tìm được đầu ra cho sản phẩm. Doanh nghiệp đồng hành là điều kiện then chốt, doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu giúp người dân yên tâm mở rộng mô hình NLKH.

Thứ sáu, mô hình NLKH giúp bảo vệ đất, nước và rừng hiệu quả, tuy nhiên, cần có cơ chế giám sát tác động môi trường, nhất là khi mô hình mở rộng. Đa dạng sinh học là yếu tố cần giữ gìn, tránh mono hóa (trồng độc canh một loài cây), cần xen canh đa dạng để giữ tính ổn định sinh thái.

Nguồn tin: danviet.vn (Bá Việt st)

Vương Đinh Huệ
Văn bản ban hành

1489/QĐ-TTg

Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 06/07/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 24/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ

LĂNG THÀNH- YÊN THÀNH ĐÓN BẰNG CÔNG NHẬN XÃ ĐẠT CHUẨN NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAO.

1541/QĐ-UBND

Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025

318/QĐ-TTg

Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025

1563/QĐ-UBND

Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025

320/QĐ-TTg

Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025

319/QĐ-TTg

Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025

263/QĐ-TTg

Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025

18/2022/QĐ-TTg

Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025

24/2020/NQ-HĐND

Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025

211/QĐ-TTg

Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025

Số 05/2014/TT-BVHTTDL

Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới


Thăm dò ý kiến

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM nên theo chỉ tiêu nào?

Xem bình chọn

Loading ... Loading ...
Thống kê
  • Đang truy cập1
  • Hôm nay0
  • Tháng hiện tại0
  • Tổng lượt truy cập0
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây