Chuyển đổi số đang và sẽ là xu hướng tất yếu trên mọi lĩnh vực trên thế giới cùng với sự phát triển không ngừng của công nghệ thông tin, công nghệ số. Chuyển đổi số có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả trên nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội cũng như quản trị xã hội. Những lợi ích dễ nhận thấy nhất đó là cắt giảm chi phí vận hành, tăng cường hiệu quả kết nối, tiết kiệm nguồn lực và minh bạch hoá các quy trình hoạt động…
Chuyển đổi số cũng là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Chủ trương này đặc biệt có ý nghĩa trong yêu cầu từng bước xây dựng “Đô thị văn minh, nông thôn mới” trên cả nước. Trong những năm gần đây, Nghệ An xác định việc thực hiện chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới là giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm trong triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh và chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Qua đó, nâng cao chất lượng đời sống, thu hẹp dần khoảng cách về chất lượng dịch vụ giữa nông thôn – thành thị phù hợp với chuyển đổi số của tỉnh, chuyển đổi số ngành nông nghiệp và từng bước hướng tới nông thôn mới thông minh.
Ngày 05/8/2022, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TU về chuyển đổi số tỉnh Nghệ An đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 586/KH-UBND ngày 22/8/2022 về chuyển đổi số tỉnh Nghệ An đến năm 2025. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã ban hành 14 kế hoạch, 06 quyết định để thực hiện các nhiệm vụ về chuyển đổi số. Hầu hết các sở, ban, ngành, địa phương trên địa bàn tỉnh đã thành lập Ban Chỉ đạo chuyển đổi số, ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo. Các sở, ban, ngành, địa phương đã triển khai nhiều hình thức tuyên truyền, học tập, quán triệt nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, cộng đồng doanh nghiệp, người dân về tính cấp thiết và sự cần thiết của chuyển đổi số.
Hội nông dân huyện Thanh Chương tập huấn về chuyển đổi số cho các hội viên
Trong kế hoạch 132/KH-UBND ngày 3/3//2023, UBND tỉnh Nghệ An cũng đã đề ra mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, phấn đấu có ít nhất 90% hồ sơ công việc cấp tỉnh, 80% hồ sơ công việc cấp huyện và 60% hồ sơ công việc cấp xã được xử lý trên môi trường mạng. Trên 70% xã có HTX tham gia mô hình liên kết gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực của xã, 100% số huyện có mô hình liên kết gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực của huyện và trong đó có 50% các mô hình liên kết gắn với vùng nguyên liệu có ứng dụng công nghệ số. Có ít nhất 50% số xã, huyện cung cấp ít nhất một dịch vụ thiết yếu (y tế, giáo dục, giám sát cộng đồng, an ninh, trật tự, môi trường, văn hóa,…) và tổ chức lấy ý kiến phản hồi về sự hài lòng của người dân/cộng đồng về kết quả xây dựng nông thôn mới thông qua ứng dụng trực tuyến.
Tuy nhiên, so với mặt bằng chung, khu vực nông thôn Nghệ An, đặc biệt là vùng trung du, miền núi đã và đang gặp phải những khó khăn, vướng mắc (hay cũng có thể nói là những điểm nghẽn) nhất định trong lộ trình chuyển đổi số để phát triển nông thôn mới bền vững, hướng tới nông thôn mới thông minh.
Thứ nhất, về quan điểm, nhận thức và thể chế vẫn còn một số hạn chế và chưa đồng bộ. Nhận thức về chuyển đổi số ở một số cơ quan, địa phương chưa thực sự rõ ràng, chưa định hình được các nội dung triển khai chuyển đổi số trong đơn vị, địa phương, lĩnh vực. Người đứng đầu tại một số địa phương, đơn vị vẫn chưa hiểu và quan tâm đầy đủ đến chuyển đổi số. Một số văn bản pháp lý về chuyển đổi số chưa hoàn thiện, trong đó có khung pháp lý về báo cáo các chỉ tiêu thống kê về chuyển đổi số, đánh giá mức độ chuyển đối số chưa được lượng hoá, nhất là về kinh tế số và xã hội số. Việc thẩm định các nhiệm vụ, dự án chuyển đổi số tại địa phương gặp nhiều khó khăn do thiếu những quy chuẩn, định mức. Sự nhận thức và công tác tuyên truyền chưa tốt nên sự đồng thuận của người dân chưa cao. Chẳng hạn, một số bộ phận người dân e ngại về ảnh hưởng của sóng điện từ của trạm BTS nên cản trở, khiếu nại, khiếu kiện, ảnh hưởng đến duy trì và phát triển hạ tầng viễn thông, hạ tầng số.
Thứ hai, về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị: Phát triển hạ tầng số tại vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, do thiếu điện lưới, địa hình phức tạp. Các xã ở vùng sâu, vùng xa còn một số thôn, bản chưa có sóng thông tin di động, hoặc có nhưng chất lượng không ổn định. Cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ ứng dụng chuyển đổi số tại một số sở, ngành, cấp huyện, cấp xã xuống cấp, thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến việc triển khai các nền tảng số phục vụ quản lý và điều hành. Hệ thống giải quyết thủ tục hành chính hoạt động chưa ổn định, chưa đáp ứng đầy đủ chức năng, tính năng kỹ thuật theo quy định hiện hành. Việc khai thác các hệ thống thông tin dùng chung phục vụ quản lý và điều hành ở một số địa phương chưa triệt để. Cơ sở dữ liệu của các ngành còn rời rạc dẫn đến khó khăn trong kết nối, liên thông và chia sẻ. Cơ sở dữ liệu chưa đầy đủ, chất lượng chưa cao để thực hiện kết nối và chia sẻ thuận lợi. Nhiều ngành chưa hình thành kho dữ liệu số. Tình hình ngân sách địa phương còn gặp nhiều khó khăn, do đó kinh phí dành cho chuyển đổi số chưa tương xứng với các nhiệm vụ đặt ra.
Thứ ba, về nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số: Đội ngũ nhân lực để chuyển đổi số ở cấp huyện, cấp xã và trong các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thiếu và yếu. Do đó, việc triển khai các nội dung về chuyển đổi số đang gặp nhiều khó khăn. Còn thiếu nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng, nhất là cho ngành công nghệ thông tin. Số doanh nghiệp công nghệ thông tin phục vụ quá trình chuyển đổi số của tỉnh chưa nhiều, chưa có doanh nghiệp chuyên sâu về lĩnh vực an toàn thông tin, đa số đều cần sự hỗ trợ của các đơn vị ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, khi gặp các sự cố kỹ thuật chưa chủ động và kịp thời khắc phục để vận hành hệ thống.
Thứ tư, về đảm bảo an ninh, an toàn thông tin trong quá trình chuyển đổi số: Các đơn vị chưa thực hiện đầu tư đảm bảo an toàn thông tin khi đưa các hệ thống vào vận hành chính thức. Chậm đề ra lộ trình, giải pháp cụ thể về đảm bảo an toàn thông tin. Vấn đề an toàn thông tin trên không gian mạng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các doanh nghiệp số tại Nghệ An đang rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở khu vực thành thị. Việc ứng dụng các nền tảng số vào quản lý, sản xuất kinh doanh cũng đang hạn chế, nhất là khu vực nông thôn, tập trung chỉ ở hoạt động quảng bá sản phẩm trên Website, mạng xã hội, một số thanh toán không dùng tiền mặt,…
Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, khó khăn trên là do nhận thức, quyết tâm chính trị về chuyển đổi số của các cấp ủy đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, doanh nghiệp và người dân chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn. Nhiều cơ quan, đơn vị chưa mạnh dạn thay đổi phương pháp, cách làm việc truyền thống và lựa chọn hướng đi phù hợp. Mặt khác một số đơn vị triển khai đồng thời nhiều giải pháp, phần mềm ứng dụng nhưng chưa sát tình hình thực tế, dẫn đến lãng phí trong đầu tư, hiệu quả không cao. Nguồn lực đầu tư cho chuyển đổi số chưa đáp ứng được nhu cầu Một số chương trình, dự án trọng điểm về hiện đại hóa hành chính, chuyển đổi số còn chậm triển khai hoặc chưa đồng bộ. Phát triển kinh tế số, xã hội số là nhiệm vụ quan trọng của chuyển đổi số, tuy nhiên việc triển khai trên địa bàn tỉnh còn lúng túng, khó khăn do cơ chế, chính sách, hướng dẫn chưa cụ thể, nền tảng để tổ chức thực hiện và hệ thống đo lường, đánh giá khu vực kinh tế số, xã hội số chưa thực sự rõ ràng.
ThS. Hoàng Đình Ngọc
Dự thảo Báo cáo Kết quả thẩm tra hồ sơ và mức độ đạt chuẩn nông thôn mới năm 2024 đối với huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An
Báo cáo Kết quả thẩm tra hồ sơ và mức độ đạt chuẩn nông thôn mới năm 2024 đối với huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An
Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025