Tại hội nghị “Cập nhật các quy định và cam kết về an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS) trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP)” sáng 21/10 ở Hưng Yên, các chuyên gia và nhà quản lý thống nhất rằng mã số vùng trồng không chỉ là yêu cầu kỹ thuật, mà đã trở thành “giấy thông hành” bắt buộc để nông sản Việt đi xa hơn trong chuỗi thương mại toàn cầu.

Ông Nguyễn Đức Kiền, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hưng Yên. Ảnh: Bảo Thắng.
Từ 47 mã vùng đến mục tiêu xuất khẩu chính ngạch
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Hưng Yên, toàn tỉnh hiện có 387 đơn vị, hộ nông dân trồng trọt đạt chứng nhận VietGAP với diện tích 4.759 ha, cùng 6 vùng sản xuất hữu cơ quy mô 48,2 ha. Đặc biệt, địa phương đã cấp 47 mã số vùng trồng cho các vùng sản xuất nông sản xuất khẩu, với tổng diện tích 348 ha tập trung ở các loại cây ăn quả chủ lực như nhãn, cam, chuối, vải và rau an toàn.
Những con số này đánh dấu bước tiến rõ rệt trong nỗ lực truy xuất nguồn gốc, chuẩn hóa quy trình sản xuất và xây dựng thương hiệu nông sản địa phương. Việc được cấp mã vùng không chỉ giúp các sản phẩm dễ dàng đáp ứng yêu cầu kiểm dịch thực vật của nước nhập khẩu, mà còn tạo nền tảng cho các doanh nghiệp và HTX tham gia vào chuỗi giá trị xuất khẩu chính ngạch.
Hiện Hưng Yên có hơn 150.000 ha đất nông nghiệp, trong đó 20.685 ha trồng cây ăn quả, cho sản lượng hơn 345.000 tấn mỗi năm. Việc cấp mã vùng giúp các sản phẩm vốn đã nổi tiếng trên thị trường nội địa như nhãn lồng, vải trứng, cam và chuối, tiếp cận các thị trường khó tính thuộc khu vực RCEP như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, song việc triển khai đồng bộ việc cấp, quản lý mã vùng trồng vẫn gặp không ít khó khăn, nhất là trước yêu cầu về chuyển đổi số, minh bạch hóa thông tin. Vẫn còn nông dân và HTX chưa quen với việc ghi chép nhật ký sản xuất, quản lý dữ liệu số, hay cập nhật quy định thay đổi từ các thị trường nhập khẩu.
Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh thừa nhận, doanh nghiệp và cơ quan quản lý địa phương vẫn lúng túng trong việc cập nhật các yêu cầu SPS mới. Do đó, rất cần sự hỗ trợ từ Văn phòng SPS Việt Nam trong việc tập huấn, hướng dẫn cụ thể.

Nông dân thu hoạch nhãn tại HTX nhãn lồng Nễ Châu. Ảnh:Tiến Trung.
ThS Đinh Đức Hiệp, cán bộ Văn phòng SPS Việt Nam thông tin: Hiệp định RCEP, gồm ASEAN và 5 đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand, là khối thương mại chiếm tới 30% GDP toàn cầu. Trong đó, chương 5 của hiệp định quy định rõ các biện pháp vệ sinh thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS), đòi hỏi sự minh bạch, hợp tác và hài hòa tiêu chuẩn giữa các quốc gia.
Từ 2022, Trung Quốc, thị trường lớn nhất trong khối RCEP, áp dụng Nghị định 248 và 249 về đăng ký cơ sở sản xuất thực phẩm nhập khẩu. Vừa qua, hôm 14/10,Trung Quốc ban hành Nghị định 280,thay thế Nghị định 248 và sẽ có hiệu lực từ 1/6/2026.
Quy định mới chuyển hướng sang quản lý phân loại theo rủi ro. Điều này đồng nghĩa doanh nghiệp và vùng sản xuất không chỉ cần đáp ứng tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, mà còn phải chứng minh năng lực kiểm soát rủi ro tại từng vùng trồng và cơ sở đóng gói. Ông Hiệp đánh giá, đây là bước kiểm soát từ gốc, nhằm đảm bảo sản phẩm nông nghiệp được giám sát toàn chuỗi, bắt đầu ngay từ vùng trồng.
Không chỉ Trung Quốc, các thị trường khác trong khối RCEP như Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia cũng áp dụng cơ chế quản lý tương tự, yêu cầu thông tin truy xuất nguồn gốc rõ ràng, tiêu chuẩn an toàn dịch bệnh và chứng nhận sản xuất sạch.
Văn phòng SPS Việt Nam cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ địa phương trong đào tạo, cập nhật quy định SPS, hướng dẫn lập hồ sơ vùng trồng và cơ sở đóng gói theo tiêu chuẩn mới của RCEP. Đây được coi là giải pháp trọng tâm giúp địa phương thích ứng với các yêu cầu quốc tế, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt.

TS Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phó Viện trưởng Viện Bảo vệ Thực vật. Ảnh:Bảo Thắng.
Nông sản muốn đi xa, mã vùng phải đi trước
Tại hội nghị, TS Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phó Viện trưởng Viện Bảo vệ thực vật cho biết, hàng rào kỹ thuật trong thương mại nông sản đang ngày càng khắt khe, đặc biệt tại các thị trường nhập khẩu lớn như Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Australia.
Mỗi lô hàng nông sản xuất khẩu phải truy xuất được nguồn gốc đến mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói. Mã số này không chỉ là con số nhận diện, mà còn là minh chứng cho việc vùng sản xuất tuân thủ các quy chuẩn về kiểm dịch thực vật, giám sát dịch hại và an toàn môi trường.
Theo bà Ngọc, để đảm bảo vùng trồng xuất khẩu bền vững, người sản xuất cần đảm bảo các yếu tố nền tảng như điều kiện đất đai, nguồn nước, giống, quy trình canh tác và biện pháp quản lý dịch hại. Trong các khảo sát gần đây, Viện Bảo vệ thực vật ghi nhận tình trạng suy thoái đất phổ biến ở hầu hết các vùng cây có múi như pH thấp, thiếu canxi và magie, mất cân đối NPK, cùng sự suy giảm hoạt tính sinh học của đất. Những hạn chế này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng duy trì ổn định của vùng trồng.
Bên cạnh đó, vùng sản xuất phải áp dụng đồng bộ quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM). Từ chọn giống sạch bệnh, nhân giống trong nhà lưới, đến giám sát định kỳ bằng bẫy đèn và bẫy màu vàng, mọi hoạt động đều phải ghi nhận trong hồ sơ.
Việc kết hợp biện pháp canh tác, sinh học và hóa học như sử dụng nấm đối kháng, phun chế phẩm sinh học hay treo bẫy dẫn dụ… không chỉ giảm tồn dư thuốc mà còn giúp hình thành vùng sản xuất an toàn dịch hại, đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu.
Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, mã số vùng trồng không còn là câu chuyện riêng của ngành trồng trọt, mà trở thành biểu tượng của năng lực quản trị chuỗi giá trị nông nghiệp. Khi mỗi lô hàng được truy xuất đến tận thửa ruộng, người nông dân không chỉ bán được sản phẩm, mà còn “bán” được uy tín, thương hiệu và sự minh bạch.