





Trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, văn hóa ngày càng được nhìn nhận không chỉ như một “nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội” mà đồng thời như mục tiêu và động lực của phát triển. Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh luận điểm này trong các văn kiện quan trọng, qua đó đặt văn hóa vào vị trí hệ nguồn nội sinh – nơi kết tinh bản sắc, hun đúc ý chí, định hình chuẩn mực và khơi thông năng lực sáng tạo của mỗi cộng đồng. Song song, vì văn hóa có khả năng “thấm sâu” vào toàn bộ quá trình phát triển, từ tổ chức sản xuất, kinh doanh đến phân phối, tiêu dùng và lối sống, cho nên mọi nỗ lực phát triển bền vững nếu bỏ quên hoặc xem nhẹ văn hóa đều khó đạt tới chiều sâu và khó duy trì sự bền vững lâu dài.
Trong bối cảnh ấy, Nghệ An – vùng đất “địa linh, nhân kiệt” – không chỉ sở hữu hệ di sản vật thể và phi vật thể phong phú (đặc biệt là Dân ca Ví Giặm được UNESCO ghi danh), mà còn hội tụ nhiều tiểu vùng văn hóa (biển, trung du, miền núi) cùng sự đa dạng tộc người (Kinh, Thái, Khơ Mú, Thổ, Mông, Ơ Đu,…). Chính sự đa dạng đó, nếu được “chuyển hóa” có phương pháp, sẽ trở thành nguồn vốn văn hóa có thể quy đổi thành giá trị kinh tế thông qua chuỗi sản phẩm – dịch vụ – trải nghiệm gắn với du lịch, làng nghề, ẩm thực, trình diễn nghệ thuật và công nghiệp sáng tạo. Đồng thời, khi Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (NTM) xác định văn hóa là một trong 19 tiêu chí, càng cho thấy việc gắn kết kinh tế – văn hóa là điều kiện tiên quyết để xây dựng xóm, thôn, bản văn hóa thực chất.

Đưa sản phẩm lên sàn thương mại điện tử và siêu thị bán lẻ hiện đại là một trong những giải pháp đầu ra dài hạn cho sản phẩm OCOP địa phương
Tuy nhiên, giữa nhận thức đúng và hành động đúng thường tồn tại một khoảng cách. Ở không ít nơi, chính sách và cách triển khai vẫn thiên về hạ tầng cứng (đường, trường, trạm, nhà văn hóa, sân bãi,…) trong khi hạ tầng mềm (chuỗi sản phẩm, dịch vụ, thương hiệu, nhân lực sáng tạo, cơ chế huy động vốn xã hội,…) còn chưa được quan tâm xứng đáng. Do đó, để biến văn hóa thành đòn bẩy thực sự trong xây dựng NTM ở Nghệ An, chúng ta cần một tiếp cận mang tính hệ sinh thái, dựa trên cơ sở lý luận chặt chẽ, đối chiếu với thực trạng cụ thể, từ đó đề xuất hệ giải pháp đột phá nhưng khả thi.
Văn hóa trong kinh tế chỉ sự thẩm thấu của các giá trị văn hóa (chuẩn mực, đạo đức, tập quán, thẩm mỹ, tri thức bản địa) vào toàn bộ đời sống kinh tế. Ở bình diện này, văn hóa định hình phong cách quản trị, kỷ luật lao động, tinh thần hợp tác, ý thức trách nhiệm cộng đồng, và qua đó ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Còn kinh tế văn hóa nhấn mạnh việc tổ chức, sản xuất, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm/dịch vụ dựa trên giá trị văn hóa, bao gồm công nghiệp văn hóa – sáng tạo (thiết kế, thủ công mỹ nghệ, biểu diễn, điện ảnh – nhạc – mỹ thuật, xuất bản, trò chơi số, quảng cáo,…), du lịch văn hóa, làng nghề, ẩm thực, bảo tàng – di tích, và các mô hình trải nghiệm cộng đồng. Hai khía cạnh này bổ sung và gia cố cho nhau: Văn hóa thấm sâu vào kinh tế giúp kinh tế phát triển có bản sắc, trong khi kinh tế hóa các giá trị văn hóa giúp bảo tồn sống và lan tỏa văn hóa.

Phát huy các giá trị văn hóa vùng miền trong phát triển du lịch ở xã Yên Hòa, tỉnh Nghệ An (xã Yên Hòa, huyện Tương Dương cũ)
Về mặt chính sách, Nghị quyết số 33-NQ/TW (2014) của Trung ương và Quyết định số 1909/QĐ-TTg (2021) phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 đã đặt mục tiêu đến 2030, doanh thu công nghiệp văn hóa chiếm khoảng 7% GDP, đồng thời đề cao nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam toàn diện. Như vậy, xét về mục tiêu, Nhà nước định hướng văn hóa – con người vừa là đích đến, vừa là động lực; xét về phương thức, Chiến lược khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, xã hội hóa và đối tác công – tư (PPP) trong lĩnh vực văn hóa.
Trong khung NTM, văn hóa là tiêu chí cốt lõi vì nó củng cố gắn kết cộng đồng, nâng cao đời sống tinh thần, và định hướng nếp sống văn minh. Đồng thời, chính văn hóa lại có thể tạo nguồn thu thông qua du lịch cộng đồng, làng nghề, sản phẩm OCOP gắn trải nghiệm, trình diễn nghệ thuật và không gian sáng tạo. Ngược lại, khi kinh tế phát triển, nguồn lực tài chính sẽ quay trở lại đầu tư cho bảo tồn và phát huy; nhờ thế, di sản không bị “đóng băng” mà được sống trong đời sống đương đại. Dẫu vậy, cần hết sức cảnh giác với nguy cơ thương mại hóa cực đoan – khi cái lợi trước mắt khiến chủ thể khai thác bóp méo giá trị, kịch hóa nghi thức, thẩm mỹ hóa quá mức hiện vật – dẫn tới phai nhạt bản sắc. Bởi thế, phát triển kinh tế văn hóa ở nông thôn phải đi kèm các chuẩn mực bảo tồn, nghĩa là vừa tạo sinh kế, vừa giữ cốt lõi.
“Nguồn vốn văn hóa” xứ Nghệ – đa dạng và giàu tiềm năng: Nghệ An sở hữu một nguồn tài sản văn hóa đặc sắc. Trước hết, về di sản phi vật thể, Dân ca Ví Giặm là biểu tượng, vừa hàm chứa giá trị thẩm mỹ, vừa phản chiếu tâm thế – lối sống – tâm hồn xứ Nghệ; khi được UNESCO ghi danh, giá trị biểu trưng và giá trị thị trường của Ví Giặm càng được nâng cấp (UNESCO, 2014). Kế đến, về không gian văn hóa, tỉnh có đầy đủ: Biển – đồng bằng – trung du – miền núi, tương ứng với các hệ sinh thái sản phẩm khác nhau: Du lịch biển – ẩm thực hải sản; du lịch nông thôn – làng nghề; du lịch sinh thái – trải nghiệm bản địa vùng cao. Thêm vào đó, hệ thống di tích – biểu tượng cách mạng (Khu di tích Kim Liên, Quảng trường Hồ Chí Minh,…) cùng các lễ hội – làng nghề (Tương Nam Đàn, gốm Trù Sơn, mộc Quỳnh Lưu,…) tạo ra mạch liên kết giữa ý nghĩa lịch sử và giá trị tiêu dùng đương đại. Cuối cùng, phong trào OCOP đã giúp “đặt tên”, “chuẩn hóa” và “định danh” cho nhiều sản phẩm đặc trưng (cam Vinh, nhút Thanh Chương, bánh đa Đô Lương, tương Nam Đàn,…) qua đó mở đường cho kết nối du lịch – quà tặng – thương mại điện tử.
Tín hiệu tích cực từ “trải nghiệm hóa”: Cùng với tiềm năng, một số mô hình đã và đang cho thấy tín hiệu tích cực. Chẳng hạn, du lịch cộng đồng Khe Rạn (Con Cuông) khai thác văn hóa Thái (ẩm thực, dân ca, trò chơi dân gian, kiến trúc nhà sàn) gắn với homestay, nhờ đó tăng thêm thu nhập, tạo việc làm tại chỗ, giữ chân thanh niên và kích hoạt niềm tự hào văn hóa. Tương tự, Bản Hoa Tiến (Quỳ Châu) đã đặt nghề dệt thổ cẩm vào đúng “trục sản phẩm”, rồi đóng gói thành trải nghiệm (tham quan – học dệt – mua sắm – lưu trú), nên chỉ trong một thời gian ngắn đã đón lượng khách đáng kể và tạo doanh thu khả quan. Đồng thời, Tương Nam Đàn – từ một món ăn dân dã – khi được chuẩn hóa quy trình, nâng cấp bao gói và kể chuyện nguồn gốc, đã trở thành đặc sản thương hiệu, có thể đi vào chuỗi quà tặng du lịch. Bên cạnh đó, Gốm Trù Sơn đang chuyển dịch từ “bán sản phẩm” sang “bán trải nghiệm làm gốm”, qua đó gia tăng giá trị và giữ nghề.
Điểm chung của các mô hình trên là “trải nghiệm hóa” văn hóa thay vì chỉ “trưng bày để ngắm”, chủ thể đã mở cửa cho khách “chạm – thử – cùng làm – cùng kể”, nhờ vậy, giá trị ký ức được định giá và trả công đúng mức. Cách tiếp cận ấy hoàn toàn phù hợp với xu hướng du lịch đương đại, khi du khách sẵn sàng chi trả cho trải nghiệm độc đáo hơn là chỉ mua một món đồ hữu hình.
Điểm sáng và khoảng trống: Về mặt thể chế, HĐND tỉnh Nghệ An đã ban hành Nghị quyết 24/2020/NQ-HĐND (chính sách hỗ trợ xây dựng NTM với hỗ trợ xi măng làm đường, thưởng phúc lợi,…) và Nghị quyết 30/2020/NQ-HĐND (hỗ trợ thiết chế văn hóa – thể thao cơ sở)… Nhờ vậy, “hạ tầng cứng” của đời sống văn hóa ở nhiều địa bàn được gia cố. Tuy nhiên, chính sách mới chỉ dừng ở đầu tư công trình, mà còn thiếu cơ chế ưu đãi tín dụng – thuế – đất đai cho doanh nghiệp/cá nhân đầu tư vào sản phẩm – dịch vụ văn hóa, do đó “hạ tầng mềm” (chuỗi giá trị, thương hiệu, phân phối, marketing,…) khó hình thành một cách đầy đủ. Hệ quả là không ít nhà văn hóa vẫn vắng hoạt động, trong khi sản phẩm chủ lực mỗi cụm không gian văn hóa vẫn chưa rõ nét.
Nút thắt hệ thống từ tư duy đến năng lực vận hành: Bên cạnh những nỗ lực đáng trân trọng, có thể chỉ ra bốn nút thắt nổi bật như: (i) một phần tư duy chính sách còn coi nặng kinh tế hạ tầng, xem nhẹ văn hóa sáng tạo, dẫn tới thiếu quyết liệt trong tạo cơ chế cho kinh tế văn hóa; (ii) sau sáp nhập thôn/xóm/bản, quy mô dân cư tăng, trong khi nhiều nhà văn hóa cũ (60 – 80 chỗ) không tương xứng với nhu cầu sinh hoạt của cộng đồng mới (300 – 350 hộ), khiến hoạt động văn hóa khó sôi động; (iii) sản phẩm – thương hiệu còn mỏng, thiếu khác biệt, năng lực thiết kế – bao gói – kể chuyện hạn chế; sự kết nối OCOP – du lịch – thương mại số chưa sâu; (iv) năng lực xã hội hóa và huy động doanh nghiệp còn yếu; trong khi đó, nếu thiếu quy tắc bảo tồn, một số hoạt động dễ trượt sang thương mại hóa cực đoan, làm mất nguyên bản.
Có thể nói tiềm năng rất lớn của Nghệ An mới chỉ chuyển hóa một phần thành giá trị thực; khoảng cách giữa “có” và “hưởng” vẫn còn, chủ yếu do nút thắt thể chế – thiết chế – năng lực vận hành. Nếu xem văn hóa là nguồn vốn nội sinh của phát triển, thì Nghệ An đang nắm giữ lợi thế hiếm có. Thế nhưng, để chuyển hóa tiềm năng thành giá trị, cần đồng thời đột phá thể chế, tổ chức lại sản phẩm theo cụm không gian, nâng cấp – hoạt hóa thiết chế, huy động nguồn lực xã hội và đẩy mạnh chuyển đổi số – truyền thông thương hiệu. Chỉ khi hệ sinh thái kinh tế văn hóa được kiến tạo và vận hành mạch lạc, văn hóa mới thực sự trở thành đòn bẩy cho xây dựng xóm, thôn, bản văn hóa, góp phần nâng chất các tiêu chí NTM, tạo việc làm tại chỗ, gia tăng thu nhập, bồi đắp niềm tự hào bản địa, đồng thời giữ hồn xứ Nghệ trong dòng chảy hiện đại.
Nói cách khác, con đường phát triển bền vững của Nghệ An trong thời kỳ mới chính là con đường đi bằng hai chân “một chân là kinh tế có bản sắc, chân kia là văn hóa biết sinh kế”. Khi hai chân bước nhịp nhàng, Nghệ An không chỉ đẹp trong ký ức mà còn giàu trong thực tại, không chỉ giữ được di sản mà còn nuôi sống người dân bằng chính di sản ấy.
ThS. Hoàng Đình Ngọc
Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 06/07/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 24/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ
Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025
Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới

Giá cau tươi ở Đắk Lắk “tuột dốc” chỉ còn 40.000-60.000 đồng/kg, lò sấy, đại lý thu mua có động thái lạ
Quảng Ngãi có 53 loài động vật quý hiếm, gồm 14 loài chim hoang dã được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam
Dự báo ‘nóng’ về cung cầu gạo 2024/25: Sản lượng và nhu cầu đều tăng, cơ hội nào cho gạo Việt?
Xã Nghi Diên (huyện Nghi Lộc) kỷ niệm 70 năm thành lập và đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
Sự thật loại trứng xanh lè xanh lét siêu độc, lạ, giá gần 1 triệu/quả, được rao bán rầm rộ khắp các chợ
Nuôi hơn 2.000 chim trĩ, nông dân Nghệ An thu trăm triệu mỗi năm
Đàn động vật hoang dã có tên trong sách Đỏ hay ngồi trên cây nhìn xuống ở khu rừng nổi tiếng Gia Lai
Bán lượng gạo khổng lồ, Việt Nam cũng là nhà nhập khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, mua của ai nhiều nhất?
Xã Mường Nọc (huyện Quế Phong) đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới 