11:39:43 22/12/2024

Chung sức xây dựng nông thôn mới_top

Chăn nuôi lợn chuyển dịch mạnh mẽ, doanh nghiệp FDI chiếm thị phần “áp đảo”

Trong 5 năm qua, tỷ lệ chăn nuôi nông hộ giảm từ 5-7%/năm, riêng năm 2019-2022, cơ sở chăn nuôi nhỏ, quy mô nông hộ giảm 15-20%. Trong khi đó, doanh nghiệp chăn nuôi FDI đang chiếm tỷ lệ áp đảo.

Đó là con số được Cục Chăn nuôi thông tin tại Hội nghị Thúc đẩy phát triển chăn nuôi lợn bền vững do Bộ NNPTNT tổ chức tại Hà Nội sáng nay (14/8), do Thứ trưởng Phùng Đức Tiến chủ trì.

Chăn nuôi nhỏ lẻ “teo tóp”, các trang trại lớn ngày càng tăng và chuyên nghiệp

Báo cáo tại hội nghị, ông Phạm Kim Đăng – Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho biết, đến cuối năm 2023, tổng đàn lợn cả nước đạt 25,5 triệu con (chưa tính khoảng 4 triệu lợn con theo mẹ), tăng 4,2% so với cùng kỳ năm 2022. Năm 2023 là năm có số đầu con lợn cao nhất trong 5 năm trở lại đây và tốc độ tăng trưởng về đầu con đạt trung bình là 6,0%/năm trong giai đoạn 2019 – 2023.

Tổng đàn lợn đến thời điểm cuối tháng 6/2024 ước tính đạt 25.549,2 nghìn con, tăng khoảng 2,9% so với cùng thời điểm năm 2023 (theo Tổng cục Thống kê). Trong đó, đàn lợn vùng Tây Nguyên có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất cả nước, tăng 16,5%.

Nguyên nhân là do có nhiều doanh nghiệp đầu tư xây dựng trang trại chăn nuôi lợn vào khu vực này trong năm 2023. Tiếp đến là khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung, tăng 3,1%; vùng Đông Nam Bộ tăng 3,0%; Đồng bằng sông Hồng tăng 2,8%; Trung du miền núi phía Bắc tăng 1,9%; chỉ có vùng ĐBSCL giảm 1,3%.

Chăn nuôi lợn đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ, sản lượng lợn sản xuất trong hộ chuyên nghiệp và trang trại chiếm 60-65%. Ảnh: nhachannuoi

Lãnh đạo Cục Chăn nuôi cho biết, ngành này đang có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo xu hướng giảm chăn nuôi nhỏ lẻ ở hộ gia đình, tăng mạnh các hộ chăn nuôi chuyên nghiệp và trang trại quy mô lớn. Trong 5 năm qua, tỷ lệ chăn nuôi nông hộ giảm từ 5-7%/năm. Riêng giai đoạn 2019-2022, cơ sở chăn nuôi nhỏ quy mô nông hộ giảm 15-20%. Hiện nay sản lượng lợn sản xuất trong nông hộ nhỏ lẻ giảm còn 35-40%; sản lượng lợn sản xuất trong hộ chuyên nghiệp và trang trại chiếm 60-65%.

Cơ cấu nguồn cung thịt lợn năm 2022 và 2023 cho thấy, doanh nghiệp nội chỉ chiếm khoảng 19%, hộ chăn nuôi chiếm 38%, doanh nghiệp FDI chiếm 43% (theo báo cáo của Chứng khoán Vietcombank –VCBS).

Trong đó, các doanh nghiệp chăn nuôi lớn trong nước (như Dabaco, Masan, Tân Long, Thiên Thuận Trường, Mavin, Greenfeed, Trường Hải, Hòa Phát…) và nước ngoài (CP, Japfa Comfeed, New Hope, CJ, Emivest, Cargill…) đang xây dựng và từng bước hình thành hệ thống trang trại liên kết chuỗi. Đây chính là bước chuyển dịch cơ cấu chăn nuôi để từng bước hiện đại hóa ngành này.

Sự chuyển dịch mạnh mẽ của ngành chăn nuôi lợn cũng được thể hiện rõ rệt ở cơ cấu đàn lợn nái. Theo đó, trong tổng số 3,12 triệu con nái năm 2023 thì đàn lợn nái của các doanh nghiệp, công ty là 1,21 triệu con, chiếm 38,8% tổng đàn lợn nái cả nước. Đàn lợn nái trong nông hộ chiếm 1,91 triệu con, chiếm tỷ lệ 61,2% tổng đàn lợn nái cả nước.

Nhưng do hiệu suất sinh sản của đàn nái trong khu vực công ty cao và điều kiện chuồng nuôi tốt hơn nên khu vực này đóng góp 47% tổng lượng lợn thịt xuất chuồng năm 2022.

Các đại biểu dự hội nghị Thúc đẩy phát triển chăn nuôi lợn bền vững do Bộ NNPTNT tổ chức tại Hà Nội.

Cục Chăn nuôi nhận định, xu hướng tất yếu của chăn nuôi lợn hiện nay là chuyển từ chăn nuôi lợn nhỏ lẻ (nông hộ) sang chăn nuôi trang trại và chăn nuôi trang trại kết hợp với liên kết HTX, tổ hợp tác (liên kết ngang), liên kết giữa các khâu và liên kết theo chuỗi khép kín (liên kết dọc), trong đó doanh nghiệp là trung tâm. Vì vậy, số hộ chăn nuôi lợn có quy mô nhỏ giảm dần theo từng năm do không cạnh tranh được về giá thành, chất lượng, an toàn thực phẩm.

“Phải khẳng định chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ không bị mất đi hoàn toàn, vì đó là sinh kế của hàng triệu hộ chăn nuôi được hình thành bao đời nay. Tuy nhiên, nông dân chăn nuôi nhỏ lẻ muốn đứng vững buộc phải liên kết với nhau nhằm tăng sức mạnh để trở thành thành viên của tổ nhóm, HTX, hoặc liên kết với doanh nghiệp. Còn muốn đứng vững độc lập thì các hộ chăn nuôi buộc phải chăn nuôi chuyên nghiệp hoặc chăn nuôi con đặc sản, quý hiếm có giá trị cao, chăn nuôi hữu cơ, sinh thái gắn với dụ lịch” – báo cáo của Cục Chăn nuôi nêu vấn đề.

“Đặc biệt, ngành chăn nuôi trên thế giới đang có nhiều biến động, dự báo vẫn tiếp tục phát triển trong năm 2024 và những năm tiếp theo. Đối với chăn nuôi lợn đang có những xu thế mới và những xu thế này sẽ tác động đến ngành chăn nuôi của Việt Nam nếu muốn phát triển bền vững” – ông Phạm Kim Đăng lưu ý. Minh Huệ

Chú trọng hơn công tác phòng chống dịch bệnh trên đàn lợn

Về tình hình dịch bệnh trên đàn lợn, ông Phan Quang Minh, Phó Cục trưởng Cục Thú y cho biết, dịch bệnh “nóng” nhất thời gian qua là bệnh dịch tả lợn châu Phi. Từ đầu năm đến nay, cả nước xảy ra 863 ổ dịch trên 46/63 tỉnh thành, tiêu huỷ hơn 57.400 con lợn, cao hơn tổng số lợn phải tiêu huỷ vì dịch bệnh này của năm ngoái (44.390 con).

So với cùng kỳ năm 2023, số ổ dịch tăng 3,02 lần và số lợn bị chết, tiêu hủy tăng 3,87 lần. “Khó khăn hiện nay là nhiều nơi không có cán bộ thú y xã, dẫn đến không phát hiện dịch bệnh kịp thời. Cũng do thiếu cán bộ thú y nên công tác phòng chống dịch bệnh nảy sinh nhiều bất cập, khi phát hiện ổ dịch thì phản ứng với ổ dịch cũng chậm trễ” – ông Minh nói.

Theo Cục Thú y, thực tế dịch bệnh xảy ra chủ yếu ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, chưa áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, sát trùng, tiêu độc và chăn nuôi an toàn sinh học. Mặc dù đã có vaccine dịch tả lợn châu Phi, nhưng các địa phương và người chăn nuôi chưa tổ chức tiêm phòng rộng rãi cho đàn lợn thịt; một số địa phương còn chủ quan, lơ là, buông lỏng công tác phòng chống dịch bệnh.

Nêu ý kiến về vấn đề này, ông Vũ Đình Tuân, Giám đốc Sở NNPTNT tỉnh Tây Ninh cho biết, những năm gần đây Tây Ninh đã có chính sách cởi mở hơn với chăn nuôi trang trại, nhất là chăn nuôi an toàn sinh học, tuần hoàn. Tỉnh cũng đã và đang mở rộng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh, mới đây nhất huyện Tân Châu đã được công nhận đạt tiêu chuẩn vùng an toàn dịch bệnh. Tuy nhiên cơ chế để bảo vệ vùng này còn yếu, nhất là các vùng đệm.

“Mỗi đêm vẫn có vài chục xe chở lợn, gà đi qua vùng này để về các cơ sở giết mổ. Chúng ta không cấm họ vận chuyển được nhưng không thể biết xe chở lợn, gà này có đảm bảo an toàn hay chưa, có cần kiểm tra ngẫu nhiên hay không? Do đó, chúng tôi cho rằng cần có cơ chế kiểm tra, kiểm soát mạnh mẽ hơn, nhằm đảm bảo vùng an toàn dịch bệnh đúng thực chất và bền vững” – ông Tuân nhấn mạnh.

Phát biểu tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến cho hay: Trong rổ thực phẩm, thịt lợn đang chiếm 65% chỉ số CPI. Hiện, giá thị lợn đang ở mức khá cao đã đem lại lợi nhuận cho người chăn nuôi và doanh nghiệp sau một thời gian bị thua lỗ. Do đó, ngành chăn nuôi đặt ra yêu cầu vừa đảm bảo tăng trưởng, nguồn cung thực phẩm, đảm bảo người chăn nuôi có lãi song chúng ta cũng cần sớm có những giải pháp quyết liệt, kịp thời để chỉ số CPI tăng ở mức hợp lý, hài hòa lợi ích giữa người chăn nuôi và người tiêu dùng, góp phần nâng cao đời sống của người dân.

Minh Huệ

Vương Đinh Huệ
Văn bản ban hành

LĂNG THÀNH- YÊN THÀNH ĐÓN BẰNG CÔNG NHẬN XÃ ĐẠT CHUẨN NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAO.

1541/QĐ-UBND

Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025

318/QĐ-TTg

Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025

1563/QĐ-UBND

Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025

320/QĐ-TTg

Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025

319/QĐ-TTg

Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025

263/QĐ-TTg

Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025

18/2022/QĐ-TTg

Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025

24/2020/NQ-HĐND

Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025

211/QĐ-TTg

Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025

Số 05/2014/TT-BVHTTDL

Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới

Số 05/2014/TT-BVHTTDL

Thông tư của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch Về sữa đổi, bổ sung tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa, thể thao xã và thôn


Thăm dò ý kiến

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM nên theo chỉ tiêu nào?

Xem bình chọn

Loading ... Loading ...
Thống kê
  • Đang truy cập0
  • Hôm nay0
  • Tháng hiện tại0
  • Tổng lượt truy cập0
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây