09:15:52 04/06/2025

Chung sức xây dựng nông thôn mới_top

Bài học từ xây dựng và phát triển mô hình du lịch nông thôn ở vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Nghệ An

Du lịch nông thôn có các loại hình chính như: du lịch di sản, du lịch văn hóa, du lịch làng nghề, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch nông nghiệp, du lịch dân tộc thiểu số. Ở miền Tây Nghệ An nói chung, vùng đặc biệt khó khăn nói riêng, chủ yếu là phát triển loại hình du lịch cộng đồng. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và phức tạp. Du lịch có mối quan hệ gắn kết với các ngành khác như Y tế, Thương mại, Tài chính, Giao thông vận tải… Muốn phát triển du lịch một cách hiệu quả phải xem xét du lịch trong tổng hòa các mối quan hệ với các ngành khác, liên kết giữa vùng này với vùng khác, liên kết giữa địa phương này với địa phương khác.

Triển khai thực hiện Nghị quyết số 07/2020/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh, năm 2021 tỉnh hỗ trợ 12 hộ dân gia đình kinh doanh dịch vụ Homestay với tổng số tiền là 1,2 tỷ đồng (ở 4 xã thuộc 4 huyện Quế Phong, Tương Dương, Kỳ Sơn và Quỳ Châu). Nội dung hỗ trợ gồm xây dựng nhà vệ sinh, mua sắm trang thiết bị ban đầu (chăn, ga, gối, đệm, máy lọc nước,…); hỗ trợ đội văn nghệ của các thôn, bản mua sắm nhạc cụ và trang phục biểu diễn để phục vụ du khách. Năm 2022, hỗ trợ 12 hộ dân với số tiền là 720 triệu đồng (Bản Long Thắng, xã Hạnh Dịch, Quế Phong; bản Mường Lống 1, xã Mường Lống, Kỳ Sơn; bản Chọng Bùng, xã Châu Lý, Quỳ Hợp; bản Bộng, xã Thành Sơn, Anh Sơn). Nội dung hỗ trợ gồm hỗ trợ bộ nhạc cụ, trang phục truyền thống, hệ thống biển báo, biển chỉ dẫn. Tổng 2 năm 2021-2022, hỗ trợ với số tiền 3,920 tỷ đồng.

Thứ nhất, Về xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch: Dự án JICA đã tổ chức khảo sát đánh giá để xây dựng mô hình du lịch cộng đồng. Tại Con Cuông, Dự án thành lập các tổ dịch vụ (tổ lưu trú, ẩm thực, trình diễn văn nghệ truyền thống và các hoạt động tham quan trải nghiệm tại địa phương như: đi xe trâu, bắt cá…); hướng dẫn thành lập tổ hợp tác sản xuất các sản phẩm từ cam và khu vườn thí điểm thuộc bản Pha, xã Yên Khê; Hướng dẫn Tổ hợp tác thực hiện các quy trình canh tác và sản xuất sản phẩm theo tiêu chuẩn VietGAP từ kỹ thuật trồng cho đến chăm sóc, thu hoạch và bảo quản cam; Thiết kế và làm mẫu giỏ đựng cam cho khách du lịch trên cơ sở sử dụng nguyên liệu sẵn có (mây, tre) và kỹ thuật đan truyền thống của người dân địa phương,…

Bài học từ xây dựng và phát triển mô hình du lịch nông thôn ở vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Nghệ An

Bài học từ xây dựng và phát triển mô hình du lịch nông thôn ở vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Nghệ An Thiếu nữ Thái tạo dáng chụp ảnh tại các điểm du lịch Cọn nước ở bản Coọc, xã Yên Hòa, huyện Tương Dương

Tổ chức khảo sát điều kiện phát triển mô hình du lịch cộng đồng tại các huyện Tương Dương, Quỳ Châu, Quế Phong nhằm mục đích đánh giá cảnh quan thiên nhiên, làng bản, bản sắc văn hóa; Hạ tầng đường giao thông (bãi đỗ xe, thông tin, viễn thông, cơ sở dịch vụ y tế); Vệ sinh môi trường chung và hệ thống nhà vệ sinh công cộng; Khả năng cung cấp các dịch vụ ăn uống, nhà nghỉ/homestay,…; Đồng thời, tổ chức khảo sát, đánh giá và hỗ trợ xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại xã Tiên Kỳ (Tân Kỳ). Mua sắm các trang thiết bị nhà vệ sinh phục vụ khách du lịch, các vật dụng sinh hoạt gia đình, các dụng cụ biểu diễn văn nghệ cộng đồng. Xây dựng và triển khai Dự án Phát triển DLST cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng đệm Vườn Quốc gia Pù Mát góp phần bản tồn đa dạng sinh học Khu dự trữ sinh quyển miền Tây Nghệ An gắn với bảo vệ và phát triển bền vững do Quỹ Môi trường toàn cầu (UNDP-GEF-SGP) tài trợ một phần kinh phí trên địa bàn huyện Tương Dương, Con Cuông, trong đó có nội dung xây dựng mô hình Phát triển du lịch sinh thái – cộng đồng gắn với bảo vệ và phát triển rừng bền vững tại bản Quang Thịnh (Tương Dương) và bản Xiềng (Con Cuông) và hỗ trợ một phần kinh phí xây dựng trạm dừng chân tại rừng Săng lẻ (Tam Đình, Tương Dương).

Bài học từ xây dựng và phát triển mô hình du lịch nông thôn ở vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh Nghệ An

Du khách chụp ảnh tại khu ẩm thực du lịch rừng Săng lẻ xã Yên Hòa, huyện Tương Dương

Thứ hai, Về công tác xúc tiến, quảng bá du lịch: Dự án của JICA đã hỗ trợ các hợp tác xã, cơ sở sản xuất thiết kế logo, nhãn mác, bao bì, đăng ký mã vạch, đăng kiểm vệ sinh an toàn thực phẩm cho các sản phẩm; Biên tập, in ấn bản đồ du lịch bản Nưa huyện Con Cuông bằng ngôn ngữ Việt – Nhật – Anh, in sách ảnh du lịch Con Cuông bằng song ngữ Việt – Anh,… Quảng bá giới thiệu du lịch cùng các sản phẩm địa phương tại các hội chợ du lịch tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng,… và một số sự kiện xúc tiến du lịch ở các nước: Lào, Thái Lan, Nhật Bản.

Các hoạt động truyền thông như tổ chức đón đoàn báo chí quốc tế (Presstrip) đến khảo sát tuyến điểm du lịch, trong đó có các mô hình du lịch cộng đồng. Phối hợp với Tổng cục Du lịch tổ chức các đoàn Famtrip, Presstrip thu hút sự tham gia của doanh nghiệp lữ hành và cơ quan báo chí trong nước và ngoài nước tham gia khảo sát dịch vụ và viết bài quảng bá điểm đến du lịch huyện Con Cuông, bản Nưa và các bản lân cận; tổ chức cho đoàn học sinh Trường Đại học Yamanashi (Nhật Bản) và đoàn cán bộ đến từ một số Bộ, ngành trung ương, các cơ quan, tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp,… đến tập huấn và khảo sát, tham quan mô hình du lịch tại Nghệ An do JICA hỗ trợ.

Thứ ba, Về chất lượng lao động: Được nâng dần thông qua các lớp tập huấn kỹ năng du lịch, tham quan học tập kinh nghiệm, tập huấn kỹ thuật canh tác và sản xuất sản phẩm nông nghiệp, tập huấn về công tác quản lý, xúc tiến quảng bá… Qua các khóa tập huấn, người dân có được hiểu biết cơ bản về du lịch và tự thiết kế được tour, lựa chọn được các nhà nghỉ, phương pháp đón tiếp khách, nhận đặt ăn, hướng dẫn du lịch, thiết kế sản phẩm lưu niệm. Tuy nhiên, lực lượng lao động phục vụ trực tiếp trong ngành du lịch thì hầu hết chưa qua đào tạo về nghiệp vụ du lịch, do vậy, chất lượng phục vụ khách du lịch chưa đáp ứng nhu cầu. Hầu hết là số lao động phổ thông, chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, chưa được đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, chưa có thói quen và tác phong nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ hạn chế. Đây chính là thách thức đối với các hoạt động du lịch ở Nghệ An. Đối với lao động là những người dân, phần lớn trong số họ chưa được nghe về du lịch cộng đồng; đại đa số chưa bao giờ tham gia những công việc trong chuỗi hoạt động du lịch cộng đồng như xe ôm, nấu nướng và đón tiếp… Về cơ bản, chất lượng nguồn lao động còn hạn chế, từ các nhà quản lý, lực lượng lao động trực tiếp phục vụ du lịch tại các cơ sở kinh doanh du lịch và người dân địa phương.

Thứ tư, Về công tác quản lý: Bộ máy quản lý hoạt động du lịch cộng đồng ở Nghệ An đã bắt đầu hình thành ở một số huyện miền núi. Tiêu biểu là mô hình quản lý tại huyện Con Cuông, vận hành thông qua dự án “Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tuyến Bồng Khê – Yên Khê – Lục Dạ – Môn Sơn, huyện Con Cuông – tỉnh Nghệ An”. Các bản tham gia dự án đã thành lập được 4 nhóm nòng cốt tại 4 thôn/bản. Mỗi nhóm gồm 6 thành viên. Bộ máy đã thể hiện được những ưu điểm nổi bật: (1) Bộ máy được tổ chức khá chặt chẽ từ cấp huyện tới các thôn bản và các tổ tham gia. Toàn bộ hoạt động của các tổ tại các thôn, bản được sự chỉ đạo thống nhất từ trên xuống. Nhờ đó, hoạt động du lịch cộng đồng được kiểm soát khá chặt chẽ, đảm bảo sự phối hợp của các bên tham gia. (2) Ban quản lý chỉ liên lạc với các hộ gia đình đã hợp đồng khi có yêu cầu tour. Các hộ gia đình chỉ cần chuẩn bị khi có đặt trước (3) Mô hình là cơ chế có tính kế tục, có lợi cho các hộ dân được chọn cung cấp dịch vụ ăn uống và homestay. Sau mô hình ở Con Cuông, tại các huyện Quế Phong, Kỳ Sơn, Quỳ Châu, Tương Dương, Anh Sơn… cũng đã thành lập Ban quản lý để điều hành các hoạt động du lịch cộng đồng. Tuy nhiên, mô hình này bộc lộ hạn chế. Người dân còn thụ động trong phát triển du lịch. Họ chưa chủ động tạo ra sản phẩm và tìm cách thu hút khách mà thụ động làm theo sự chỉ đạo của Ban quản lý. Một số hộ dân không có cơ hội đón khách du lịch, khó có được lợi ích từ du lịch. Vô hình chung, mô hình trở thành cơ chế sinh lợi cho một bộ phận người dân.

Thứ năm, Về dịch vụ lưu trú, ăn uống: Các cơ sở lưu trú, ăn uống và nhà ở của người Thái ở các huyện miền Tây Nghệ An đã được đưa vào khai thác phục vụ du lịch, nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan và tìm hiểu của du khách. Dịch vụ ăn uống do các tổ ẩm thực tại các bản làng đảm nhận thực hiện, đã khai thác các giá trị văn hóa ẩm thực của dân tộc Thái. Phần lớn du khách cho biết họ bị hấp dẫn bởi các món ăn truyền thống nơi đây, từ nguyên liệu địa phương đến cách chế biến mang đậm hương vị truyền thống.

Thứ sau, Dịch vụ vận chuyển: Khách du lịch thường di chuyển đến điểm du lịch cộng đồng bằng phương tiện riêng của các công ty du lịch, cho nên, cần lưu ý bến bãi đậu xe thuận tiện, các phương tiện cho thuê và các cơ sở sửa chữa tại điểm du lịch. Tuy nhiên, điểm đậu xe cho xe du lịch chưa được quan tâm. Về phương tiện vận chuyển và cơ sở sửa chữa chưa đáp ứng nhu cầu du khách. Tại các huyện có hồ thủy điện, sông suối với phong cảnh thiên nhiên đẹp, nhưng lại không có phương tiện thích hợp để du khách tham quan. Tại Con Cuông, bản Nưa, bản Xiềng, bản Yên Thành, bản Khe Rạn thuận tiện để khách kết hợp tham quan đập Phà Lài và sông Giăng hoặc khách du lịch cũng thường di chuyển bằng đường thủy trên sông Giăng vào tham quan 2 bản Cò Phạt và bản Búng của người Đan Lai trong vùng lõi Vườn Quốc gia Pù Mát. Phương tiện được sử dụng để di chuyển, tham quan ở đây là những chiếc nốc (thuyền máy) được người dân địa phương đóng bằng gỗ, chạy xăng và sử dụng chân vịt, do đó, phát ra tiếng ồn to lại có mùi dầu rất khó chịu. Để vào tham quan bản Cò Phạt, bản Búng khách phải trải qua khoảng 2 giờ di chuyển trong tiếng ồn. Vào mùa khô, nhiều đoạn trên sông Giăng mực nước không cao, nhiều ghềnh thác lại di chuyển ngược dòng, chân vịt va phải đá và bị gãy,… Phương tiện vận chuyển thô sơ, không an toàn và trên các nốc cũng thường không có áo phao. Đây là một thực trạng cần sớm được cải thiện để không làm giảm sức hấp dẫn của điểm du lịch.

Khách du lịch thường thích di chuyển bằng xe đạp, xe máy, để tận hưởng không khí trong lành kết hợp tham quan các điểm du lịch lân cận, nhưng ở Nghệ An mới chỉ có một vài điểm có dịch vụ này (Phà Lài, Hạnh Dịch…). Nếu họ di chuyển bằng phương tiện cá nhân, thì khó để tìm được một điểm sửa chữa trên quãng đường di chuyển khi cần.

Thứ bảy, Về nguồn khách du lịch cộng đồng: khách nội địa chiếm tỷ lệ rất thấp, chủ yếu là khách nội tỉnh và một số đến từ Hà Nội. Đối với nguồn khách quốc tế, khách Pháp chiếm số lượng cao nhất. Các bản Yên Thành, bản Xiềng, bản Khe Rạn (Con Cuông), Hoa Tiến (Quỳ Châu), Bản Cọ Muồng (Quế Phong),… đi tiên phong trong việc thu hút khách. Tuy nhiên, số lượng khách du lịch đến với các bản làng chưa ổn định.

Du lịch cộng đồng còn nhiều tồn tại, hạn chế. Số huyện đang triển khai loại hình du lịch này chưa tương xứng với tiềm năng; Giao thông đi lại khó khăn; Cơ sở vật chất phục vụ cho du lịch cộng đồng tại các bản còn kém, chưa đồng bộ, nhà vệ sinh chưa đạt yêu cầu, hoặc bị hư hỏng mà không có điều kiện đầu tư sửa chữa (không có móc treo quần áo, không có giấy vệ sinh, không có xà bông tại khu vực rửa tay, mùi hôi thối…); Số lượng doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn tỉnh đưa đón khách đến với các điểm du lịch cộng đồng còn ít, mới chỉ khoảng 3-4 doanh nghiệp (Công ty TNHH Dịch vụ và Du lịch VSC, Lâm Khang Tourist, Du lịch PhucGroup…); Nguồn khách du lịch cộng đồng chưa ổn định, nên doanh thu về du lịch chưa lớn, đóng góp chưa thực sự đáng kể vào nguồn thu nhập của cộng đồng. Lực lượng lao động tham gia làm du lịch cộng đồng còn thiếu và yếu về cả số lượng và chất lượng; Lợi ích kinh tế của người dân khi tham gia phục vụ khách du lịch chưa đảm bảo, nên chưa thực sự gây hiệu ứng tích cực trong cộng đồng; Một số phong tục tập quán đã được khai thác đưa vào phục vụ du khách, tuy nhiên, còn thiếu sự ủng hộ của người dân khi tham gia; Chưa có quy hoạch, quản lý cụ thể, chủ yếu hoạt động dưới dạng tự phát; Ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường chưa đảm bảo.

Quan tâm đẩy mạnh thực hiện Chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới, hướng đến xây dựng sản phẩm du lịch sinh thái gắn với cộng đồng có trọng tâm, trọng điểm ở vùng đặc biệt khó khăn.Đồng thời xác định “Phát triển du lịch nông thôn là một trong những giải pháp căn cơ, động lực thúc đẩy xây dựng nông thôn mới bền vững, góp phần phát huy lợi thế, giá trị khác biệt của nông nghiệp, nông thôn và nông dân; đồng thời nông thôn mới là nền tảng hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đa dạng, bền vững của du lịch nông nghiệp, nông thôn”.

ThS. Hoàng Đình Ngọc

Vương Đinh Huệ
Văn bản ban hành

Dự thảo Báo cáo Kết quả thẩm tra hồ sơ và mức độ đạt chuẩn nông thôn mới năm 2024 đối với huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An

Dự thảo

Báo cáo Kết quả thẩm tra hồ sơ và mức độ đạt chuẩn nông thôn mới năm 2024 đối với huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An

LĂNG THÀNH- YÊN THÀNH ĐÓN BẰNG CÔNG NHẬN XÃ ĐẠT CHUẨN NÔNG THÔN MỚI NÂNG CAO.

1541/QĐ-UBND

Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025

318/QĐ-TTg

Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025

1563/QĐ-UBND

Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025

320/QĐ-TTg

Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025

319/QĐ-TTg

Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025

263/QĐ-TTg

Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025

18/2022/QĐ-TTg

Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025

24/2020/NQ-HĐND

Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025

211/QĐ-TTg

Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025


Thăm dò ý kiến

Đánh giá kết quả thực hiện Chương trình NTM nên theo chỉ tiêu nào?

Xem bình chọn

Loading ... Loading ...
Thống kê
  • Đang truy cập0
  • Hôm nay0
  • Tháng hiện tại0
  • Tổng lượt truy cập0
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây