





Xã Hữu Kiệm nằm trên đỉnh phía Tây Bắc Nghệ An, cách trung tâm tỉnh Nghệ An hơn 200km, với 25 bản với 12.609 nhân khẩu, trong đó có 14 bản và 7.002 nhân khẩu dân tộc Khơ-mú. Dân cư Hữu Kiệm có sự đa dạng dân tộc: người Khơ-mú, Thái, Kinh, và nhiều dân tộc ít người khác cùng sinh sống. Trong cộng đồng này, bà con Khơ-mú chiếm tỷ lệ 55,5% trên tổng dân số toàn xã. Địa hình xã là vùng cao đồi núi, cư dân sinh sống chủ yếu bằng nương rẫy; đây cũng là điều kiện hình thành nên nét sinh hoạt và văn hóa độc đáo của người Khơ-mú xã Hữu Kiệm. Trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới và xu hướng toàn cầu hoá, việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Khơ-mú (như phong tục tập quán, làng nghề, lễ hội, ẩm thực đặc trưng,…) trở nên cần thiết. Bản sắc Khơ-mú không chỉ gắn với ý thức cộng đồng mà còn là nền tảng để phát triển du lịch sinh thái – văn hóa; do đó, “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khơ-mú” không chỉ là nhiệm vụ văn hoá mà còn là yếu tố then chốt trong xây dựng “bản văn hóa kiểu mẫu” bền vững ở Hữu Kiệm.
Đồng bào Khơ-mú ở Hữu Kiệm vẫn lưu giữ nhiều phong tục, tín ngưỡng và nghệ thuật truyền thống đặc sắc. Trước hết, nhà sàn (Gang kêz) truyền thống là công trình kiến trúc chủ yếu của người Khơ-mú, với cột gỗ cao, vách phên, sàn lát bằng gỗ hoặc nứa; kiểu nhà này vừa gắn bó chặt chẽ với đời sống nông nghiệp đồng thời thích nghi vừa phù hợp khí hậu, điều kiện tự nhiên (tránh thú dữ, rắn, rết, dành khoảng trống dưới sàn để chăn nuôi – theo quan niêm dân gian truyền lại). Bên cạnh đó, các nghề thủ công truyền thống là điểm sáng văn hóa, tiêu biểu là nghề đan lát (Tanhz) mây tre ở các bản Khơ-mú. “Làm rẫy no ăn, đan mây ấm mặc”, trải qua nhiều thế hệ, đồng bào dân tộc Khơ-mú đã duy trì, bảo tồn giá trị văn hóa của nghề thủ công đan lát. Năm 2007, bản Đỉnh Sơn 1 được UBND tỉnh công nhận làng nghề truyền thống và hiện nay có hàng chục hộ gia đình chuyên đan lát; ban đầu sản phẩm phục vụ sinh hoạt, nhưng nay chính quyền xã đã chỉ đạo thành lập Hợp tác xã tạo cơ hội nghề thủ công đan lát phát triển, nâng cao giá trị, quảng bá sản phẩm. Sản phẩm điển hình như mâm, ghế, gùi tre (từ mây tre) được làm tỉ mỉ, bền đẹp và tiêu thụ rộng khắp địa phương. Nhờ đó, cả bản Đỉnh Sơn 1 từng “từng bước thoát nghèo” nhờ nghề truyền thống này.
Về văn hóa tinh thần, người Khơ-mú có nhiều nghi lễ gắn với nương rẫy, như lễ mừng cơm mới (ma mả hưm mệ), lễ tạ ơn trời đất (xể rệ) thường diễn ra sau mỗi vụ gặt, thu hoạch hoa màu đã xong để tạ ơn tổ tiên, trời đất đã phù hộ gia đình, dân bản có được mùa màng bội thu. Đồng bào cũng rất coi trọng việc mừng nhà mới (ga gang hưm mê): khi một gia đình Khơ-mú xây dựng, sửa sang nhà, bà con trong bản đều đến chúc mừng, chủ nhà thường đãi mổ lợn thết đãi rồi cả bản cùng văn nghệ chung vui. Ngoài lễ hội theo mùa vụ, dân Khơ-mú còn tổ chức Tết cổ truyền (grợc) vào cuối năm âm lịch (khoảng tháng 11 Âm lịch), với các nghi thức cúng tổ tiên và nhảy múa, ca hát truyền thống.

Buổi truyền dạy các làn điệu dân ca Khơ Mú cho các em học sinh của 2 nghệ nhân đến từ bản Ky Ty và Định Sơn, xã Hữu Kiệm, tỉnh Nghệ An (xã Hữu Kiệm, huyện Kỳ Sơn cũ)
Âm nhạc và dân ca là nét văn hóa không thể thiếu. Hát giao duyên (truyền thống đối đáp nam nữ) ở Khơ-mú rất đa dạng, tiêu biểu là hát Tơm, hát Re ré – các làn điệu dân ca đối đáp, mộc mạc nhưng ngọt ngào được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Bên cạnh đó, cộng đồng Khơ-mú còn có các bài khèn, sáo (pùng pí) điệu múa truyền thống thể hiện trong các dịp lễ hội. Hệ thống lễ nghi và sinh hoạt âm nhạc này góp phần làm phong phú đời sống văn hóa ở bản làng.
Văn hóa ẩm thực Khơ-mú cũng độc đáo: đồng bào dùng nguyên liệu sẵn có như nếp, ngô, khoai sắn, gia súc, gia cầm, nguyên liệu khai thác từ thiên nhiên (măng, cá, rau, rêu,…) để chế biến. Họ thường ăn xôi thích các món vị cay, chua, đắng. Trong đó, món chẻo (gia vị cay làm từ măng rừng trộn ớt), nậm pịa (nước gạo mán lên men) hay cá chua nướng là đặc sản của vùng này. Các món ăn khác như nhắm nhọc, mọc, mít hoặc các món nướng, hấp, lam gắn với bản sắc đồng bào cũng góp phần làm phong phú văn hóa ẩm thực Khơ-mú. Trong đó, món nhắm nhọc (ù runz) được coi như biểu tượng văn hóa ẩm thực của đồng bào dân tộc Khơ-mú.
Điều đặc biệt góp phần làm phong phú thêm bức tranh đời sống văn hóa của đồng bào Khơ-mú phải kể đến Bếp thiêng (tưm brạ lôộc). Gian thờ bếp thiêng trong văn hóa Khơ Mú được coi là không gian linh thiêng chuyên dùng để thờ cúng tổ tiên và các vị thần linh. Bếp thiêng được xem như cầu nối giữa thế giới người sống và thần linh; chỉ được nhóm lửa trong các nghi lễ trọng đại (cúng ma nhà, cúng tổ tiên, khi sinh con, cưới hỏi,…). Qua gian bếp thiêng, người Khơ Mú thể hiện lòng thành kính với tổ tiên, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và cầu mong bình an, may mắn cho gia đình và cộng đồng. Đây là nét văn hóa tâm linh độc đáo và quan trọng trong đời sống cộng đồng Khơ Mú.
Trong thời gian qua, Hữu Kiệm nỗ lực, lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số nói chung và bản sắc văn hóa dân tộc Khơ-mú nói riêng. Xác định văn hóa Khơ Mú là tài sản đặc thù cần bảo tồn song hành với xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu. Vì vậy, cấp ủy đã chỉ đạo nâng cấp, xây mới nhà văn hóa cộng đồng khang trang tại bản Huồi Thợ. Địa phương duy trì các lễ hội đặc sắc Khơ Mú (mừng cơm mới, nhà mới,…) và khuyến khích mặc trang phục truyền thống trong sinh hoạt cộng đồng. Bên cạnh đó, xã phát huy vai trò già làng, thầy cúng trong truyền dạy phong tục Khơ Mú; đồng thời lồng ghép văn hóa dân tộc vào giáo dục và hoạt động du lịch cộng đồng. Nhờ vậy, tỷ lệ gia đình văn hóa của xã đạt 85% và phần đa các bản được công nhận “bản văn hóa”, góp phần củng cố ý thức gìn giữ bản sắc dân tộc trong cộng đồng.
Ở Hữu Kiệm, các chính sách dân tộc và chương trình, dự án được áp dụng để phát triển kinh tế gắn với bảo tồn văn hóa như: Dự án 6 “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch”. Kết quả là Hữu Kiệm bảo lưu được bản sắc Khơ Mú đặc trưng, đồng thời nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Các biện pháp trên đã phát huy hiệu quả truyền thống cộng đồng Khơ Mú, góp phần xây dựng xã bản nông thôn mới phù hợp đặc điểm dân tộc (nương rẫy, nhà sàn, lễ hội truyền thống) trong giai đoạn 2025-2030.
Bản sắc văn hóa Khơ-mú đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng “bản văn hóa kiểu mẫu” – một trong những tiêu chí cơ sở của nông thôn mới. Một “bản văn hóa kiểu mẫu” thường phải hội tụ các đặc trưng văn hóa dân tộc, phong tục lành mạnh, phong trào văn nghệ sôi nổi và đời sống tinh thần phong phú. Văn hóa Khơ-mú cung cấp cho Hữu Kiệm nét riêng để tạo dựng bản sắc mẫu mực: các lễ hội truyền thống tạo cộng đồng, tình đoàn kết; nghề thủ công mang lại thu nhập và giữ gìn tri thức bản địa; ẩm thực đặc trưng góp phần hình thành thương hiệu du lịch cộng đồng. Nhờ có nghề đan lát, bản Đỉnh Sơn 1 đã hình thành thương hiệu sản phẩm mây tre biến giá trị văn hóa thành lợi ích kinh tế rõ nét. Đặc biệt, việc dẫn dắt thế hệ trẻ tham gia văn hóa Khơ-mú (qua các Câu lạc bộ, lớp tập hát dân ca) tạo ra nguồn nhân lực bảo tồn lâu dài.
Khi bản sắc Khơ-mú được gìn giữ và khơi dậy, khí thế xây dựng nông thôn mới càng lan toả. Truyền thống hiếu khách, yêu lao động của người Khơ-mú đã giúp bản làng Hữu Kiệm củng cố các tiêu chí văn hóa – xã hội của xã Nông thôn mới (chất lượng giáo dục – y tế, an ninh trật tự, xây dựng đời sống văn hóa). Các bản văn hóa Khơ-mú kiểu mẫu không chỉ giữ nguyên bản sắc mà còn nhân rộng những giá trị tích cực như ý thức cộng đồng cao, phong tục tốt đẹp (như văn hoá “bản làng văn hóa” và nhà văn hóa khang trang ở mỗi bản). Hiện nay, 25 bản xã Hữu Kiệm đều được công nhận là “bản văn hóa”, cho thấy tác động to lớn của văn hóa địa phương vào phong trào xây dựng nông thôn mới.
Dù giàu tiềm năng, việc bảo tồn văn hóa Khơ-mú ở Hữu Kiệm đang gặp nhiều thách thức. Nguyên nhân chủ yếu nằm ở sự tiếp biến văn hóa và đời sống còn khó khăn. Nhiều lễ hội, sinh hoạt tập thể truyền thống bị lãng quên do nếp sống mới: đời sống hiện đại du nhập vào làm giới trẻ giảm nhiệt huyết với ca hát, nhảy múa dân tộc. Thực tế, có hiện tượng thế hệ trẻ Khơ-mú ít quan tâm đến nghề đan lát truyền thống, chuộng hàng công nghiệp tiện dụng. Đồng thời, đời sống miền núi khó khăn, thu nhập thấp cũng khiến một số hộ vội vàng tiếp cận văn minh bên ngoài, dẫn tới nhả tục, ví dụ: tín ngưỡng linh thiêng dần bị cắt giảm hoặc phối hợp với phong tục mới.
Về mặt xã hội, sự thiếu tính gắn kết giữa các thế hệ và hạn chế về trình độ nhận thức cũng là rào cản. Một số đồng bào Khơ-mú còn tập tục nhút nhát, e ngại khi tham gia hoạt động văn hoá cộng đồng do ngôn ngữ, văn hóa cội nguồn. Trong khi đó, việc giáo dục, tuyên truyền chưa bao phủ hết, dẫn đến nhận thức của nhiều hộ vẫn chưa hình thành trách nhiệm bảo tồn văn hóa. Kết quả là, hiện “dân ca hát lượn, múa Khơ mú gốc” có nguy cơ thất truyền nếu không có biện pháp khắc phục mạnh mẽ.
Để “giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc gắn với phát triển du lịch cộng đồng”, cùng với đó, cấp ủy đảng, chính quyền cần tập trung triển khai thực hiện các giải pháp:
Thứ nhất, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống văn hóa dân tộc Khơ-mú gắn với đời sống sinh hoạt, học tập của con cháu. Lồng ghép vào chương trình giáo dục trường phổ thông và các hoạt động cộng đồng. Công an, Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội cần phối hợp tổ chức thêm các hoạt động văn hóa – thể thao dân tộc (hội thi hát Tơm, trải nghiệm nghề đan lát) để thu hút giới trẻ tham gia. Các nhà trường nên mời nghệ nhân Khơ-mú giảng dạy ca múa dân gian, đan lát cho học sinh khối dân tộc thiểu số.
Thứ hai, chính quyền và người dân nâng cao chất lượng các lễ hội, làng nghề để thu hút đầu tư, khách du lịch. Có thể lập hồ sơ đề nghị công nhận “Bản văn hóa kiểu mẫu” cho các bản Khơ-mú tiêu biểu, kèm theo chính sách hỗ trợ đầu tư nhà văn hóa, thiết chế văn nghệ, và hỗ trợ tạo thương hiệu, marketing sản phẩm thủ công để nâng giá trị kinh tế cho sản phẩm bản địa.
Thứ ba, tiếp tục bồi dưỡng đội ngũ cán bộ văn hoá chủ chốt (đặc biệt cán bộ là người Khơ-mú) để thực hiện nhiệm vụ bảo tồn văn hóa; hỗ trợ thành lập Câu lạc bộ gia đình trẻ Khơ-mú tiên phong trong gìn giữ truyền thống (CLB tuyên truyền văn hóa, CLB đan lát,…). Đồng thời, khuyến khích cộng đồng ghi chép, thu âm, quay phim ghi lại nghi thức cũ, câu chuyện dân gian Khơ-mú để lưu trữ. Sự tham gia của giới trẻ (thông qua CLB thiếu nhi, đội văn nghệ quần chúng) sẽ được tạo điều kiện bằng các suất “học bổng văn hoá”, tham gia dự thi về dân ca dân vũ, hội thi tìm hiểu văn hóa.
Thứ tư, cần có sự phối hợp, liên kết giữa các ban, ngành, các cấp, khu vực để đẩy mạnh khai thác văn hóa Khơ-mú chung của khu vực Tây Nghệ. Hữu Kiệm có thể hợp tác với một số địa phương cùng có người Khơ-mú sinh sông để tổ chức sự kiện, lễ hội chung nhằm giao lưu văn hóa, trưng bày các sản phẩm trong đời sống dân tộc Khơ-mú.
Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Khơ-mú ở Hữu Kiệm không chỉ là trách nhiệm của người Khơ-mú mà còn là nhiệm vụ chung của cả cộng đồng, chính quyền và toàn xã hội. Trong bối cảnh mới của đất nước, phát huy bản sắc Khơ-mú sẽ góp phần làm cho từng bản làng Hữu Kiệm có nền móng văn hóa đặc trưng, từ đó hình thành bản văn hóa kiểu mẫu gắn với phát triển kinh tế – xã hội. Để thành công, cần sự quan tâm đồng bộ từ tuyên truyền nâng cao nhận thức đến đầu tư thiết chế văn hóa, tạo sinh kế từ nghề truyền thống và thu hút thế hệ trẻ tham gia. Chỉ khi đó, giá trị văn hóa Khơ-mú mới được lưu giữ bền vững, góp phần làm phong phú thêm “bức tranh đa sắc” văn hóa tỉnh Nghệ An nói chung và xã Hữu Kiệm nói riêng.
ThS. Hoàng Đình Ngọc
Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 06/07/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 24/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ
Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025
Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới

Giá cau tươi ở Đắk Lắk “tuột dốc” chỉ còn 40.000-60.000 đồng/kg, lò sấy, đại lý thu mua có động thái lạ
Quảng Ngãi có 53 loài động vật quý hiếm, gồm 14 loài chim hoang dã được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam
Dự báo ‘nóng’ về cung cầu gạo 2024/25: Sản lượng và nhu cầu đều tăng, cơ hội nào cho gạo Việt?
Xã Nghi Diên (huyện Nghi Lộc) kỷ niệm 70 năm thành lập và đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
Sự thật loại trứng xanh lè xanh lét siêu độc, lạ, giá gần 1 triệu/quả, được rao bán rầm rộ khắp các chợ
Nuôi hơn 2.000 chim trĩ, nông dân Nghệ An thu trăm triệu mỗi năm
Bán lượng gạo khổng lồ, Việt Nam cũng là nhà nhập khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, mua của ai nhiều nhất?
Đàn động vật hoang dã có tên trong sách Đỏ hay ngồi trên cây nhìn xuống ở khu rừng nổi tiếng Gia Lai
Xã Mường Nọc (huyện Quế Phong) đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới 