





Ngoài những chính sách vĩ mô cần tiếp tục coi trọng công tác hỗ trợ sinh kế cho người nghèo trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan, song trước mắt cũng còn một số khó khăn do phần lớn hộ nghèo, cận nghèo hiện nay thiếu sinh kế bền vững, việc làm ổn định và trình độ chuyên môn hạn chế; nhiều hộ mới thoát nghèo có nguy cơ tái nghèo cao nếu không được tiếp tục hỗ trợ; điển hình như vùng trung du và miền núi phía Bắc, Tây Nguyên tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung cả nước; nhiều nơi tỷ lệ hộ nghèo còn trên 50%, có nơi trên 70%, nguy cơ tái nghèo còn cao; kinh tế, hạ tầng và dịch vụ tại một số địa bàn dân tộc thiểu số và miền núi vẫn rất chậm phát triển; tỷ lệ hộ nghèo ở các khu vực vùng sâu, vùng xa cao gấp nhiều lần bình quân cả nước. Ngoài ra, tiến độ giải ngân nguồn vốn đầu tư còn thấp ở nhiều nơi, công tác phối hợp giữa các bộ, ngành với địa phương đôi khi còn thiếu chặt chẽ. Một số địa phương vùng sâu, vùng xa vẫn thiếu cơ sở hạ tầng thiết yếu, dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch, vệ sinh môi trường còn hạn chế; hạ tầng sản xuất – thương mại – logistics chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến hiệu quả sinh kế. Thực tế cho thấy, một bộ phận người dân vẫn còn tâm lý thụ động, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, trong khi những yếu tố khách quan như biến đổi khí hậu, già hóa dân số, đô thị hóa và tác động từ các xung đột, khủng hoảng quốc tế đang tạo thêm áp lực đối với công tác giảm nghèo. Bên cạnh đó, việc triển khai một số mô hình giảm nghèo còn thiếu tính bền vững, chưa gắn kết chặt chẽ với điều kiện thực tế, đặc điểm văn hóa bản địa và yêu cầu phát triển dài hạn của từng địa phương.
Để tiếp tục thực hiện thành công trong công tác giảm nghèo bền vững, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp, trong đó tập trung khuyến khích phân cấp mạnh mẽ, giao thẩm quyền nhanh cho địa phương để thúc đẩy giải ngân đúng tiến độ. Ví dụ, các địa phương nên chủ động sắp xếp lại danh mục dự án theo ưu tiên, kiên quyết cắt bỏ đầu tư kém hiệu quả. Chính phủ cũng cần xem xét các cơ chế đặc thù về vốn (đối ứng, tín dụng chính sách) cho vùng khó khăn.Hoàn thiện chính sách và tích hợp liên ngành, các chính sách giảm nghèo cần được rà soát, sửa đổi theo hướng tích hợp, đồng bộ với các chương trình khác (nông thôn mới, dân tộc thiểu số) để tránh chồng chéo. Văn bản hướng dẫn và tiêu chí phải phù hợp với thực tiễn địa phương. Đặc biệt, xây dựng cơ sở dữ liệu hộ nghèo dùng chung, áp dụng công nghệ thông tin trong xác định và quản lý đối tượng. Bên cạnh đó,đẩy mạnh các dự án hỗ trợ phát triển kinh tế hộ, tăng năng suất lao động. Đồng thời, cần ưu tiên liên kết chuỗi giá trị để tạo đầu ra bền vững cho sản phẩm của hộ nghèo. Khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã tham gia đầu tư, tiêu thụ sản phẩm, nhân rộng mô hình sản xuất có sự tham gia của hộ nghèo. Việc liên kết giữa hộ nghèo với doanh nghiệp vừa giúp tạo việc làm ổn định, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực từ Chương trình. Cần tiếp tục đẩy mạnh đào tạo nghề và giải quyết việc làm tại chỗ, tổ chức các khóa đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động địa phương, gắn với chính sách hỗ trợ vay vốn để người dân phát triển sinh kế. Đồng thời, mở rộng các kênh xuất khẩu lao động có thu nhập cao cho lao động ở vùng khó khăn. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cần tăng cường hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm và phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường lao động, đặc biệt là cung cấp thông tin và kết nối cung – cầu việc làm.
Đặc biệt, tại Thông báo số 500/TB-VPCP ngày 21/9/2025 kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà tại cuộc họp về dự thảo Nghị định quy định chuẩn nghèo đa chiều quốc gia giai đoạn 2026 – 2030 và Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững giai đoạn 2026 – 2035 nêu rõ: “Kế thừa những kinh nghiệm, thành quả đạt được của giai đoạn vừa qua, Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2026 – 2035 cần tiếp tục được triển khai như một cuộc vận động để huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, trong đó cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương trực tiếp triển khai, lựa chọn hạng mục cần thiết để thực hiện theo tinh thần địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm, Trung ương đóng vai trò hỗ trợ, xây dựng cơ chế, chính sách, tiêu chí và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Việc bố trí chương trình cần có phân loại, xác định tiêu chí ưu tiên để ngân sách nhà nước tập trung hỗ trợ khu vực cần thiết, đồng thời huy động sự tham gia của người dân và doanh nghiệp. Nghiên cứu việc triển khai các mục tiêu, tiêu chí về lĩnh vực văn hóa, giáo dục và đào tạo, y tế, xây dựng và một số lĩnh vực có liên quan khác theo hướng không sử dụng nguồn vốn của Chương trình xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, nhưng được thiết kế đồng bộ, bổ trợ lẫn nhau để hoàn thành mục tiêu chung của Chương trình…”./.
Nguồn: tcnnld.vn ( Cẩm Vân st)
Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 06/07/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 24/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ
Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025
Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới

Giá cau tươi ở Đắk Lắk “tuột dốc” chỉ còn 40.000-60.000 đồng/kg, lò sấy, đại lý thu mua có động thái lạ
Quảng Ngãi có 53 loài động vật quý hiếm, gồm 14 loài chim hoang dã được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam
Dự báo ‘nóng’ về cung cầu gạo 2024/25: Sản lượng và nhu cầu đều tăng, cơ hội nào cho gạo Việt?
Xã Nghi Diên (huyện Nghi Lộc) kỷ niệm 70 năm thành lập và đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
Sự thật loại trứng xanh lè xanh lét siêu độc, lạ, giá gần 1 triệu/quả, được rao bán rầm rộ khắp các chợ
Nuôi hơn 2.000 chim trĩ, nông dân Nghệ An thu trăm triệu mỗi năm
Bán lượng gạo khổng lồ, Việt Nam cũng là nhà nhập khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, mua của ai nhiều nhất?
Đàn động vật hoang dã có tên trong sách Đỏ hay ngồi trên cây nhìn xuống ở khu rừng nổi tiếng Gia Lai
Xã Mường Nọc (huyện Quế Phong) đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới 