Theo TS Phan Việt Hà, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), Viện đã nghiên cứu thành công tiến bộ kỹ thuật về bón phân NPK cho câycà phê, đã chuyển giao quy trình cho nông dân. Hiện nay, Viện vẫn đang tiếp tục phối hợp với các tổ chức, cá nhân nghiên cứu các loại phân NPK mới phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu, góp phần tiết kiệm chi phí đầu vào.

Áp dụng công nghệ bón phân cho cà phê theo độ phì của đất do WASI nghiên cứu giúp tiết kiệm trên 15% lượng phân bón, năng suất tăng từ 5 – 10 %, hiệu quả kinh tế tăng từ 3 – 5%. Ảnh:V.Đ.T.
WASI còn tiến hành xét nghiệm, phân tích mẫu đất và hướng dẫn nông dân bón phân hợp lý cho cây trồng. Khuyến cáo nông dân ưu tiên sử dụng các loại phân bón hữu cơ có chất lượng cao, phân bón vô cơ tan chậm để bảo vệ đất và đa dạng sinh học trong đất, áp dụng công nghệ bón phân cho cà phê theo độ phì của đất để tiết kiệm trên 15% lượng phân bón, năng suất tăng từ 5 – 10%, hiệu quả kinh tế tăng từ 3 – 5%.
Bên cạnh đó, WASI cũng nghiên cứu đo lường mức độ rửa trôi dinh dưỡng trong canh tác cà phê, từ đó đề xuất các giải pháp sử dụng phân bón để quản lý đất hiệu quả như bổ sung vôi, than sinh học. Viện đã thiết kế và vận hành thử nghiệm quy trình tưới tiêu mới, tiếp tục điều chỉnh dựa trên số liệu về tốc độ thấm nước của đất, sự thoát hơi nước của cây.
Viện đang tiến hành thử nghiệm hệ thống đo lưu lượng dòng chảy trong thân cây (sap flow), bao gồm các thiết bị cảm biến để đo lượng thoát hơi nước của cây theo thời gian thực nhằm cung cấp thông tin về lượng nước tiêu thụ thực tế và sử dụng các thiết bị cảm biến đo độ ẩm đất ở các độ sâu khác nhau để cung cấp thông tin về lượng nước sẵn có.
Viện đã nghiên cứu công nghệ tưới tiết kiệm kết hợp bón phân qua hệ thống tưới với mô hình tưới nước tiết kiệm phun mưa tại gốc có quy mô trên 200 ha, tiết kiệm 30 – 40% lượng nước. So với trước đây, việc áp dụng phương pháp tưới tiết kiệm đã giúp giảm sử dụng nước từ 3.000 m3/ha/năm xuống còn 1.800 – 2.000 m3/ha/năm, góp phần tăng hiệu quả kinh tế, bảo vệ tài nguyên nước, tăng năng suất cà phê 10 – 15%.
WASI cũng đã nghiên cứu và chuyển giao thành công chongành cà phêcác tiến bộ kỹ thuật từ vườn ươm đến quản lý vườn cà phê như xử lý đất, ghép, trồng xen, trồng cây che bóng, quản lý thảm phủ và quy trình canh tác tổng hợp cà phê vối tái canh theo hướng cơ giới.

Hàng loạt tiến bộ kỹ thuật trong canh tác cà phê do WASI nghiên cứu đã giúp nông dân giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Ảnh:V.Đ.T.
Việc ứng dụng quy trình ghép chồi cà phê bằng các giống do WASI nghiên cứu, chọn tạo đã thay thế được các giống cà phê cũ năng suất thấp, bị bệnh gỉ sắt gây hại nặng, góp phần làm cho vườn cây sinh trưởng đồng đều. Bên cạnh đó, kỹ thuật ghép đã giúp năng suất tăng 39,7 – 54,4% sau 18 – 42 tháng, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Các mô hình trồng xen cây cà phê với hồ tiêu, cây ăn quả cho thấy cây cà phê phát triển rất tốt. Đối với mô hình cà phê trồng xen với cây ăn quả, trong mùa khô, lượng nước trong đất bốc hơi chậm hơn nên đã tiết kiệm được nước tưới, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trồng thuần cà phê. Mặt khác, cây cà phê thải ra lượng khí nhà kính lớn, trong khi những cây ăn quả (bơ, mắc ca…) có khả năng hấp thụ khí carbon cao, làm giảm phát thải từ sản xuất cà phê.
WASI đã chuyển giao quy trình sản xuất cà phê bền vững theo tiêu chuẩn VietGAP, RA, hữu cơ, mô hình nông nghiệp tái sinh, nông nghiệp carbon thấp. Nghiên cứu về giảm phát thải CO2 trong canh tác cà phê cũng đang được Viện tiếp tục triển khai.