






Từ bón phân “4 đúng” đến tuyến đường ôtô vào vùng canh tác
Câu chuyện về sự trỗi dậy của cây dong riềng ở Nguyễn Huệ bắt nguồn từ những con người dám nghĩ, dám làm và dám tin vào khoa học kỹ thuật. 5 năm về trước, ông Vi Văn Học là một trong những người đi tiên phong trồng cây dong riềng, về sau này là Bí thư Chi bộ kiêm Trưởng xóm Lũng Cút, ông lại càng gương mẫu.
Xóm Lũng Cút nằm nép mình bên những vách núi. Đất canh tác không nhiều, lại bị chia cắt manh mún. Người dân bao đời nay chỉ biết trông vào cây ngô, cây sắn. Nhưng cây ngô, cây sắn trồng trên đất này thì vất vả quanh năm mà cái nghèo vẫn cứ bám riết. Khi xã bắt đầu có chủ trương chuyển đổi cây trồng, gia đình ông Học là một trong những hộ đầu tiên hưởng ứng.
Chúng tôi gặp ông Học ngay trên mảnh vườn hơn 600 m² của gia đình. Một dải đồi dong riềng xanh tốt, thân mập mạp, cao quá đầu người, đang bước vào mùa thu hoạch. Ông Học vừa lật những gốc dong riềng kiểm tra củ, vừa trò chuyện: Trồng cây ngô mãi không khá lên được, người dân không có thu nhập. Mấy năm trước, xã vận động, rồi có lớp tập huấn kỹ thuật, tôi đi học ngay. Người ta bảo cây này hợp đất đồi, chịu hạn tốt. Mình là đảng viên, mình phải làm trước cho bà con thấy.
Cái khác biệt của ông Học không chỉ là “dám làm”, mà còn là “dám làm đúng”. Ông không trồng theo kinh nghiệm cũ, phó mặc cho trời đất, mà áp dụng nghiêm ngặt những gì đã học được. Đó là nguyên tắc bón phân “4 đúng”: đúng loại, đúng liều lượng, đúng thời điểm và đúng cách. Rồi ông Học giải thích một cách giản dị, như nói về một người bạn: Mình phải cho cây ‘ăn’ đúng lúc nó cần thì củ nó mới to được. Bón phân cho cây dong riềng phải làm ba lần. Đầu tiên là bón lót, lúc làm đất phải cho phân chuồng, phân lân vào để cho đất có sức. Lần thứ hai là khi cây đã bén rễ, mọc được vài lá, mình bón thúc (phân đạm, kali) rồi lấy cuốc vun đất vào gốc cho cây. Lần thứ ba, khi cây chuẩn bị ra hoa mình lại bón thúc thêm một lần nữa. Làm đúng như thế, cây nó khỏe, củ nó sai.
Nhờ tuân thủ đúng kỹ thuật, diện tích dong riềng của gia đình ông Học luôn xanh tốt, củ to đều, không bị sâu bệnh hay đổ ngã. Năm 2024, chỉ với 600 m² đất cằn, gia đình ông thu về trên 20 tấn củ tươi. Sau khi trừ hết chi phí phân bón, giống má, thu hơn 60 triệu đồng. Ông Học phấn khởi nhắc lại: Số tiền này, nếu trồng ngô thì có khi cả chục năm cũng không có được. Bà con trong xóm thấy nhà tôi làm được, họ tin rồi.
Với vai trò là Bí thư Chi bộ, Trưởng xóm, ông Học đều mang câu chuyện của gia đình mình ra kể tại sinh hoạt chi bộ, họp xóm. Ông vận động bà con: Bà con cứ mạnh dạn chuyển sang trồng dong riềng đi. Nhà nước hỗ trợ giống, phân bón cho hộ nghèo, cận nghèo. Tôi làm được thì bà con cũng làm được. Lời nói của ông Học được chứng minh bằng những bao củ dong riềng chất đầy sân. Cả xóm Lũng Cút nghe theo. Từ vài hộ ban đầu, đến nay, diện tích trồng dong riềng toàn xóm đã mở rộng lên 13,5 ha, riêng năm 2025, trồng mới 1,5 ha.

Một yếu tố quan trọng đã tạo ra cú hích lớn nhất, đó là tuyến đường ô tô vừa được bê tông hóa do Nhà nước và nhân dân cùng làm có chiều dài 1,5 km đến tận vùng canh tác. Ông Học chỉ ra con đường đất mới mở nói: Ngày trước không có đường, làm ra củ dong riềng đã vất vả, vận chuyển nó ra ngoài còn vất vả hơn. Bà con phải cho vào gùi, cõng bộ ra đường lớn, hoặc thồ bằng xe máy, mỗi chuyến được vài chục cân, ngã lên ngã xuống. Giờ thì sướng rồi, đường ô tô vào tận rẫy, xe tải của xưởng miến, của thương lái họ vào tận nơi cân. Cứ đào lên là có người mua. Bà con phấn khởi lắm, yên tâm mở rộng sản xuất. Sang năm, chúng tôi sẽ vận động bà con tận dụng hết diện tích đất canh tác để trồng dong riềng, tăng thêm thu nhập.
Nâng cao chất lượng miến dong
Nếu như câu chuyện ở Lũng Cút là bài học về áp dụng khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, thì ở xóm Cốc Phát lại là một bài học về việc nâng tầm giá trị cho củ dong riềng. Ở đây, người dân không chỉ bán củ, họ còn bán sợi.
Ông Hoàng Văn Viên, xóm Cốc Phát là một trong 3 hộ đi đầu trồng dong riềng của xóm. Ông Viên có một dáng người khắc khổ, đậm chất của một lão nông, người đã biến mảnh đồi hơn 1 ha ngô trước đây để trồng dong riềng. Một quyết định táo bạo mà lúc đó nhiều người trong xóm bảo ông “liều”. Nhưng cái “liều” của ông Viên đã được đền đáp. Mảnh đồi dốc ấy, dưới bàn tay chăm bẵm của ông đã cho ra gần 50 tấn củ dong riềng/năm. Ông Viên không bán củ tươi như nhiều người mà quyết định đi thêm một bước là làm miến.
Ông Viên chia sẻ: Bán củ tươi cũng có tiền, nhưng không được bao nhiêu. Mình làm ra sợi miến, giá trị nó cao hơn nhiều, bình quân mỗi năm gia đình tôi thu lợi gần 200 triệu đồng. Để làm được điều đó thì mình phải giữ một chữ “tín”. Sản phẩm miến dong nhà ông nổi tiếng khắp vùng, được khách hàng trong và ngoài tỉnh tin dùng, vì chất lượng.
Ông Viên khẳng định: Miến gia đình tôi làm hoàn toàn bằng bột dong riềng nguyên chất. Cái tâm mình đặt vào đấy. Tuyệt đối không pha trộn bột khác, không tẩy trắng, không dùng phụ gia. Sợi miến làm ra nó có màu xám đậm tự nhiên, màu của củ dong riềng. Khách họ tinh lắm, ăn là biết ngay. Sợi miến của mình khi nấu không bị nát, để nguội sợi vẫn dai, khi ăn có vị thơm ngon đặc trưng của tinh bột. Mình làm thật thì mới bền được. Câu chuyện của ông Viên đã truyền cảm hứng cho nhiều hộ dân học theo, vừa trồng, vừa chế biến, biến cả xóm thành một làng nghề miến dong.
Chúng tôi tìm đến nhà ông Hoàng Văn Thế, một trong những người làm miến lâu năm nhất xóm Canh Miện. Ông Thế kể: Ngày xưa làm vất vả lắm, toàn làm bằng tay. Củ dong riềng phải giã bằng cối đá, lọc bột bằng vải, phơi bột, rồi tráng miến, phơi miến… tất cả đều là sức người. Bây giờ, công việc đã đỡ vất vả hơn nhiều. Ông Thế chỉ vào dàn máy móc đang chuẩn bị vào mùa sơ chế: Nay có máy móc hỗ trợ rồi. Máy rửa củ, máy xay nhuyễn, máy ép sợi… nó làm thay mình nhiều, đỡ vất vả hơn. Nói vậy nhưng ông Thế vẫn khẳng định: Máy móc chỉ là công cụ hỗ trợ, còn cái “hồn” của sợi miến thì vẫn không thay đổi. Quy trình sản xuất để làm ra sợi miến chất lượng, đảm bảo giữ được hương vị thơm ngon vẫn phải như cũ.

Cú huých từ OCOP trở thành cây trồng chủ lực
Những nỗ lực của những người đi trước, sau hàng chục năm vùng nguyên liệu miến dong chính thức nằm trong chiến lược phát triển của cả xã Nguyễn Huệ, nơi được mệnh danh là “thủ phủ” dong riềng của tỉnh.
Là người nắm rõ nhất bức tranh toàn cảnh của xã, ông Hầu Văn Khánh, Chủ tịch UBND xã Nguyễn Huệ cho biết: Toàn xã hiện phát triển được gần 250 ha dong riềng với 320 hộ dân tham gia. Năm 2024, sản lượng đạt trên 12.000 tấn. Năm 2025, nhờ bà con áp dụng kỹ thuật tốt, năng suất bình quân ước rên 600 tạ/ha. Dự kiến sản lượng toàn xã sẽ tăng lên trên 16.000 tấn. Với giá thu mua ổn định tại chỗ từ 2.400 – 3.000 đồng/kg, giá trị kinh tế ước đạt hơn 41 tỷ đồng. Để có được thành quả này, xã vừa vận động người dân mở rộng diện tích vừa kết nối để nâng cao giá trị.
Ông Khánh cho biết: Chúng tôi xác định đây là cây trồng chủ lực, thời gian tới, xã sẽ tăng cường tuyên truyền để bà con hiểu rõ hơn nữa lợi ích của cây dong riềng. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các doanh nghiệp để cung cấp giống chất lượng, tổ chức thêm các lớp tập huấn kỹ thuật. Xã cũng đang xin nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số để hỗ trợ, nhân rộng các giống dong riềng có chất lượng. Đặc biệt, xã Nguyễn Huệ đang có một tầm nhìn xa hơn là tiếp tục triển khai các mô hình trồng theo hướng hữu cơ, đăng ký sản phẩm OCOP, làm nhãn mác, truy xuất nguồn gốc. Phải đảm bảo chất lượng và bảo vệ môi trường thì thương hiệu mới bền vững. Minh chứng rõ nhất cho hướng đi này là sản phẩm “Miến dong Án Lại” của xã Nguyễn Huệ đã được chứng nhận OCOP 3 sao. Từ một sản phẩm làm tự phát, sợi miến Án Lại giờ đã có thương hiệu, có bao bì đẹp, đủ tiêu chuẩn để đi vào các siêu thị, vươn ra các thị trường khó tính như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh phía Nam.
Mùa thu hoạch dong riềng vẫn đang tiếp diễn. Trên những triền đồi cằn cỗi trước đây của Nguyễn Huệ, giờ màu xanh của dong riềng là kết quả sự chuyển đổi mạnh mẽ cây trồng phù hợp với khí hậu, đất đai. Hướng phát triển vùng nguyên liệu miến dong – cây trồng chủ đang thực sự mang đến một cuộc sống đủ đầy hơn cho người dân.
Nguồn: baocaobang.vn ( Cẩm Vân st)
Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 06/07/2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung Quyết định số 148/QĐ-TTg ngày 24/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ
Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025
Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới

Giá cau tươi ở Đắk Lắk “tuột dốc” chỉ còn 40.000-60.000 đồng/kg, lò sấy, đại lý thu mua có động thái lạ
Quảng Ngãi có 53 loài động vật quý hiếm, gồm 14 loài chim hoang dã được ghi nhận trong Sách Đỏ Việt Nam
Dự báo ‘nóng’ về cung cầu gạo 2024/25: Sản lượng và nhu cầu đều tăng, cơ hội nào cho gạo Việt?
Xã Nghi Diên (huyện Nghi Lộc) kỷ niệm 70 năm thành lập và đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao
Sự thật loại trứng xanh lè xanh lét siêu độc, lạ, giá gần 1 triệu/quả, được rao bán rầm rộ khắp các chợ
Nuôi hơn 2.000 chim trĩ, nông dân Nghệ An thu trăm triệu mỗi năm
Đàn động vật hoang dã có tên trong sách Đỏ hay ngồi trên cây nhìn xuống ở khu rừng nổi tiếng Gia Lai
Bán lượng gạo khổng lồ, Việt Nam cũng là nhà nhập khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, mua của ai nhiều nhất?
Xã Mường Nọc (huyện Quế Phong) đón Bằng công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới 