TheoCục Trồng trọt và BVTV, tính đến ngày 15/8/2025, cả nước đã cấp được 9.207 mã số vùng trồng, 1.735 mã số cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu các loại quả tươi như: Thanh long, xoài, vú sữa, chuối, bưởi, chanh leo, chanh không hạt, nhãn, vải, ớt, thạch đen, sầu riêng, mít… Các mã số này đã được nước nhập khẩu phê duyệt, gắn mã và sẵn sàng phục vụ xuất khẩu.

Vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, hiện nay có 1.634 mã số vùng trồng và 440 mã cơ sở đóng gói. Ảnh:Phương Chi.
Tại vùng Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên, hiện nay có 1.634mã số vùng trồngvà 440 mã cơ sở đóng gói; trong đó, tỉnh Lâm Đồng có số lượng mã số xuất khẩu lớn nhất, với 943 mã số vùng trồng, 341 mã cơ sở đóng gói.
Mã số vùng trồng và mã số cơ sở đóng gói là tấm hộ chiếu thông hành để các mặt hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu chính ngạch đến thị trường các nước trên thế giới. Xác định tầm quan trọng đó, trong năm 2025, công tác giám sát của các địa phương đã rất được quan tâm, chú trọng. Nhiều địa phương trong vùng đã bố trí nguồn lực để thực hiện việc giám sát mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói theo quy định.
Đại diện Cục Trồng trọt và BVTV cho biết, thực hiện kế hoạch “Phát triển mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói xuất khẩu” năm 2025, đơn vị này sẽ kiểm tra công tác cấp và quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu tại 8 tỉnh, thành phố với 62 mã số vùng trồng và 27 cơ sở đóng gói. “Tại khu vực Tây Nguyên, Cục đã giảm sát tại tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk đạt 100% so với kế hoạch. Hầu hết các vùng trồng và cơ sở đóng gói được giám sát đều duy trì được điều kiện đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu”, đại diện Cục Trồng trọt và BVTV thông tin.
Theo Cục Trồng trọt và BVTV, tính đến tháng 9/2025, đơn vị này đã nhận được một cảnh báo đối với các lô hàng thực phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang một số nước như EU, Đài Loan, Úc và Trung Quốc. Tất cả các lô hàng này đều bị trả về do không đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngay sau đó, Cục Trồng trọt và BVTV đã có văn bản thông báo yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu liên quan đến lô hàng thực hiệntruy xuất nguồn gốctheo quy định, đồng thời đề nghị các cơ quan quản lý an toàn thực phẩm tại địa phương hỗ trợ giám sát quá trình truy xuất.

Hầu hết các vùng trồng và cơ sở đóng gói tại Đắk Lắk và Gia Lai được giám sát đều duy trì được điều kiện đáp ứng yêu cầu của nước nhập khẩu. Ảnh:Phương Chi.
Năm 2025, mặc dù công tác mở cửa thị trường, cấp và quản lý mã số vùng trồng đạt được những kết quả tích cực, nhưng vẫn còn khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ. Hiện các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định và Thông tư hướng dẫn về quản lý mã số vùng trồng đã được xây dựng chưa ban hành, gây khó khăn cho công tác quản lý và xử lý vi phạm, gian lận mã số vùng trồng.
Công tác giám sát còn thực hiện theo hình thức nên chất lượng kiểm tra mã số xuất khẩu chưa cao, kết quả là còn có một số thông báo vi phạm của các nước nhập khẩu đối với các lô hàng trái cây xuất khẩu của Việt Nam. Doanh nghiệp xuất khẩu,cơ sở đóng góivà vùng trồng chưa ý thức được giá trị, tầm quan trọng và vai trò của mã số xuất khẩu khi tham gia vào chuỗi sản xuất – xuất khẩu; chưa nắm rõ các quy định về kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm của Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế. Vì vậy, các hành vi vi phạm đối với hàng hóa xuất nhập khẩu vẫn còn tiếp diễn.
Theo Cục Trồng trọt và BVTV, thời gian tới, để nâng cao hiệu quả cấp và quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói nông sản xuất khẩu cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát các vùng trồng, cơ sở đóng gói xuất khẩu nhằm kiểm soát chất lượng chặt chẽ ở tất cả các khâu, từ sản xuất đến sơ chế, đóng gói, bảo quản và vận chuyển.
Đồng thời, cần xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm bằng hình thức tạm dừng hoặc thu hồi mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói xuất khẩu tùy thuộc vào mức độ và tần suất vi phạm. Việc này nhằm nâng cao ý thức tuân thủ của người sản xuất, doanh nghiệp xuất khẩu nhằm tạo ra sự công bằng trong hoạt động xuất khẩu.

Giám sát chặt mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói là điều kiện tiên quyết để đảm bảo các yêu cầu của các nước nhập khẩu. Ảnh:Phương Chi.
Đồng thời, xây dựng các giải pháp kỹ thuật để quản lý tốt các vùng trồng, cơ sở đóng gói trái cây xuất khẩu. Thường xuyên rà soát và cập nhật các quy định về kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng được yêu cầu của các thị trường nhập khẩu. Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng, các khu vực sơ chế, chế biến, bảo quản, các kho lạnh quy mô lớn. Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý thông qua các kênh truyền thông và các khóa đào tạo, tập huấn nâng cao về quy định mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói và các quy định về kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm của nước nhập khẩu.