Tại Hội nghị “Tổng kết, đánh giá và đề xuất xây dựng Chương trình hành động quốc gia chống sa mạc hóa” do Cục Lâm nghiệp (Bộ NNPTNT) phối hợp với Viện Nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng tổ chức, ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp khẳng định, chống sa mạc hóa là nhiệm vụ quan trọng.
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến năm 2019, tổng diện tích đất bị thoái hóa cả nước là 11,8 triệu ha; trong đó đất bị suy thoái nặng là 1,2 triệu ha, suy thoái trung bình là 3,8 triệu ha, suy thoái nhẹ là 6,8 triệu ha. Vùng có diện tích đất suy thoái lớn nhất là Trung du miền núi phía Bắc; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; suy thoái ít nhất là Đồng bằng sông Cửu Long và không có diện tích đất bị suy thoái nặng
Báo cáo tổng kết Chương trình hành động quốc gia chống sa mạc hóa giai đoạn 2006 – 2010, định hướng 2020 và đề xuất chương trình hành động quốc gia chống sa mạc hóa giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 của Cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho thấy, trong giai đoạn này, ứng dụng tiến bộ, khoa học công nghệ trong phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể như giải pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm nước; nghiên cứu cây trồng chịu hạn, chịu mặn; hệ thống hồ chứa nước đa mục tiêu phục vụ cho mùa khô; hệ thống kênh mương được kiên cố và mở rộng; kỹ thuật lâm sinh cải tiến… Điều tra, đánh giá đất thoái hóa và các nghiên cứu, chương trình, dự án, đề án phục hồi, cải tạo đất cũng đã được triển khai thực hiện ở các vùng ưu tiên.
Sau 15 năm thực hiện, nguyên nhân sa mạc hóa do hoạt động của con người gây ra đã dần được khắc phục, công tác phòng, chống sa mạc hóa dần chuyển từ “bị động” sang “chủ động”. Tuy nhiên, tổng diện tích đất bị thoái hóa hiện nay vẫn chiếm 35,7% tổng diện tích tự nhiên cả nước, trong đó 43% diện tích đất bị thoái hóa là đất sản xuất nông nghiệp và 42% diện tích bị thoái hóa là đất lâm nghiệp. Trước diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu (BĐKH) và áp lực phát triển kinh tế – xã hội đặc biệt tại các vùng nguy cơ sa mạc hóa cao, nhiệm vụ chống sa mạc hóa còn nhiều thách thức và cần thiết phải tiếp tục có những hành động mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tiếp theo.
Theo kết quả điều tra, các vùng có nguy cơ cao về thoái hóa đất là vùng Trung du và Miền núi phía Bắc (37% tổng diện tích đất bị thoái hóa cả nước), vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (30%) và vùng Tây Nguyên (15%). Do vậy, công tác phòng, chống sa mạc hoá ở 4 vùng ưu tiên là Tây Bắc, duyên hải Miền Trung, Tây Nguyên, tứ giác Long Xuyên.
Đơn cử như tại Ninh Thuận, ông Trần Ngọc Hiếu, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Ninh Thuận cho biết, theo kết quả đánh giá thoái hoá đất của Trung tâm Điều tra và Quy hoạch Đất đai, Tổng cục Quản lý Đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ninh Thuận có diện tích đất bị thoái hoá lớn nhất trong 8 tỉnh vùng Duyên Hải Nam Trung Bộ (xấp xỉ 69% diện tích đất điều tra). Các dạng thoái hoá đất xảy ra trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận chủ yếu gồm: xói mòn đất do mưa, xói mòn đất do gió; Khô hạn, hoang mạc hoá; suy giảm độ phì; kết von hoá; mặn hoá và phèn hoá. Vấn đề cơ bản của hoang mạc hóa ở Ninh Thuận đáng kể nhất là hạn hán, thoái hóa đất và cồn cát di động theo mùa gió trong năm. Quá trình này đang diễn ra mạnh mẽ ở cả quy mô và cường độ tại tỉnh Ninh Thuận, nơi đang phải gánh chịu hạn hán gay gắt trong những năm gần đây.
Đối với tỉnh Sơn La, tổng diện tích đất bị thoái hóa là hơn 777.000 ha, chiếm trên 61% tổng diện tích điều tra. Vấn đề cơ bản của hoang mạc hóa ở Sơn La đáng kể nhất là hạn hán và thoái hóa đất. Các quá trình này sẽ diễn ra mạnh hơn, nhanh hơn cả về cấp độ và khu vực bị ảnh hưởng khi chịu tác động của nắng nóng, nhiệt độ cao, khô hạn kéo dài, xâm nhập mặn gây nên bởi biến đổi khí hậu.
Bà Nguyễn Thùy Mỹ Linh, Viện Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng cho biết, để thực hiện nhiệm vụ chống sa mạc hóa, nhiều chương trình, dự án về khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, tín dụng, xây dựng cơ sở hạ tầng … đã được triển khai rộng rãi trên cả nước. Điển hình, việc nâng cao hiệu quả khai thác các công trình thủy lợi, chủ động phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn cho sản xuất nông nghiệp đã góp phần quan trọng đảm bảo năng suất cây trồng và bảo vệ đất, đặc biệt những vùng đất bị sa mạc hoá, hoang mạc hoá, đất dốc vùng đồi núi và đất cát ven biển.
Diện tích cây trồng cạn được áp dụng tưới tiết kiệm nước tăng đáng kể qua các năm. Từ 115.000 ha (năm 2015) lên 529.000 ha (2020) cây trồng được tưới tiết kiệm, tăng hơn 4,5 lần so với năm 2015.
“Trước diễn biến phức tạp của biến đổi khí hậu và áp lực phát triển kinh tế – xã hội đặc biệt tại các vùng nguy cơ sa mạc hóa cao, nhiệm vụ chống sa mạc hóa còn nhiều thách thức và cần thiết phải tiếp tục có những hành động mạnh mẽ hơn trong giai đoạn tiếp theo”, bà Linh đánh giá.
Ưu tiên phục hồi đất khu vực bị xói mòn
Theo ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, thoái hóa đất và hoang mạc hóa là một trong những vấn đề môi trường và tài nguyên thiên nhiên mà ngành nông lâm nghiệp đang phải đối mặt và giải quyết để phát triển nền kinh tế nông nghiệp bền vững hiện nay. Hiện tượng này là một trong những loại hình thiên tai đang xảy ra với mức độ gây thiệt hại rất lớn cho môi trường, kinh tế, xã hội.
Các hoạt động bảo vệ rừng, ngăn chặn nạn phá rừng và chuyển đổi rừng sai mục đích, trồng và phục hồi rừng theo hướng bền vững đóng vai trò quan trọng trong phòng, chống và khắc phục sa mạc hoá/thoái hoá đất vùng đồi núi, bán sơn địa, khu vực ven biển thông qua vai trò bảo vệ đất, hạn chế xói mòn và bồi lắng lòng hồ, lòng sông, lòng suối; điều tiết, duy trì nguồn nước cho sản xuất và đời sống xã hội, tác động trực tiếp tới nguồn nước và chất lượng nước ở vùng hạ du và khu vực lân cận, bảo vệ diện tích sản xuất nông nghiệp, đóng góp vào mục tiêu chống thoái hóa đất, sa mạc hóa.
Cục trưởng Cục Lâm nghiệp đánh giá, dù chưa phải xếp vào quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng về suy thoái đất và khô hạn, tuy nhiên Việt Nam đã sớm nhận diện nguy cơ và ký kết gia nhập Công ước chống sa mạc hoá của Liên Hợp quốc.
Tham gia Công ước chống sa mạc hoá của Liên Hợp quốc (Công ước UNCCD), thực hiện cam kết, Thủ tướng chính phủ ban hành Chương trình hành động quốc gia chống sa mạc hoá giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020. Một trong những quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của chương trình là: “Chống sa mạc hóa là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, góp phần quản lý bền vững các nguồn tài nguyên rừng, nguồn nước và đất đai, nâng cao từng bước thu nhập của người dân, xóa đói, giảm nghèo, giải quyết vững chắc nhiệm vụ định canh định cư”.
Tuy nhiên, theo Viện Nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng, xu hướng biến đổi khí hậu phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến lớp phủ thực vật và đất có thể làm chậm tiến trình thực hiện mục tiêu cân bằng suy thoái/thoái hóa đất đòi hỏi tăng cường các giải pháp thích ứng. Các vùng có nguy cơ sa mạc hóa/thoái hóa đất cao là các vùng khó khăn về phát triển kinh tế – xã hội, dân trí thấp, quản lý và sử dụng đất đai bền vững và hiệu quả là một thách thức lớn đối với địa phương.
Từ thực tế đó, trong giai đoạn tới, Viện Nghiên cứu sinh thái và môi trường rừng cho rằng, vùng Trung du và miền núi phía Bắc cần ưu tiên hạn chế và phục hồi các khu vực đất bị xói mòn và ngăn ngừa gia tăng diện tích đất bị khô hạn. Vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung và vùng Tây Nguyên ưu tiên hạn chế và phục hồi các khu vực đất bị suy giảm độ phì và khô hạn. Vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long ưu tiên hạn chế và phục hồi các khu vực đất bị suy giảm độ phì, đất bị mặn hóa và đất bị phèn hóa.
Theo Ban thư ký Công ước chống sa mạc hoá, hiện nay trên thế giới có khoảng 1,52 tỷ ha đất bị suy thoái và khô hạn, diện tích này vẫn đang tiếp tục tăng lên với tỷ lệ trung bình khoảng 1% mỗi năm. Đáng chú ý là khu vực chiếm tỷ lệ đất bị suy thoái và khô hạn cao nhất lại là khu vực Đông Á và Đông Nam Á, chiếm tới 24% toàn thế giới. Hàng năm ít nhất 100 triệu ha đất sản xuất bị suy thoái, ảnh hưởng đến an ninh lương thực toàn cầu, ảnh hưởng đến cuộc sống của khoảng 1,3 tỷ người trên thế giới vì phải đối mặt với tình trạng suy thoái đất ngày một gia tăng. Hiện tượng khô hạn cũng diễn ra phức tạp không kém, với khoảng 100 quốc gia trên thế giới hiện nay đang bị ảnh hưởng, trong đó có 15 quốc gia đang bị ảnh hưởng ở mức nghiêm trọng. Khu vực Châu Á của chúng ta cũng là khu vực có tỷ lệ đất khô hạn cao nhất thế giới.
Hội nghị các Bên tham gia Công ước lần thứ 16 (COP 16) năm 2024 với chủ đề “Đất của chúng ta, Tương lai của chúng ta” vừa kết thúc vào ngày 14/12 vừa qua tại Ả Rập – Xê Út đã đưa ra nhu cầu tối thiểu 2,6 nghìn tỷ USD đầu tư đến năm 2030 để khôi phục hơn một tỷ ha đất bị thoái hóa và biện pháp khắc phục hạn hán. Con số này ước tính tương đương 1 tỷ USD đầu tư hàng ngày từ nay đến năm 2030 để có thể đạt được các mục tiêu phục hồi đất đai toàn cầu.
Sa mạc hóa nêu trong văn kiện Công ước chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hợp quốc về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro năm 1992 có nghĩa là sự suy thoái đất đai tại các vùng khô hạn, bán khô hạn, vùng ẩm nửa khô hạn do các nguyên nhân khác nhau, trong đó có biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người gây ra.
Suy thoái đất đai là quá trình giảm hoặc mất đi năng suất sinh học và khả năng đem lại lợi ích kinh tế của đất.
P.V
Ban hành Bộ tiêu chí thôn, xóm, bản đạt chuẩn nông thôn mới; Vườn đạt chuẩn nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2022 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Về việc quy định các nội dung, tiêu chí xã đạt chuẩn nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu; huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới; quy định thị xã, thành phố trực thuộc cấp tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025
Phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Ban hành Quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận, công bố và thu hồi quyết định công nhận địa phương đạt chuẩn nông thôn mới, đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu và hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025
Về một số chính sách hỗ trợ trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021 – 2025
Sửa đổi một số tiêu chí, chỉ tiêu của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới, Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới nâng cao, Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới và Bộ tiêu chí quốc gia về huyện nông thôn mới nâng cao giai đoạn 2021 – 2025; bổ sung tiêu chí huyện nông thôn mới đặc thù, không có đơn vị hành chính cấp xã giai đoạn 2021 – 2025
Giới thiệu mô hình hay và đề xuất sáng kiến triển khai hiệu quả Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới
Thông tư của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch Về sữa đổi, bổ sung tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa, thể thao xã và thôn